11.
Cừu, đã báo.
Thế nhưng, ta lại chẳng cảm thấy được giải thoát.
Hồn phách ta, vẫn bị cầm giữ trong Phí phủ.
Tòa phủ đệ này, nay đã hóa thành lao ngục giam giữ linh hồn ta.
Còn Phí Uyên, đã trở thành vị thanh niên quyền khuynh triều dã, thế lớn một phương trong kinh thành.
Năm hai mươi ba tuổi, hắn nhậm chức Đại lý tự khanh, được thánh thượng vô cùng trọng dụng.
Hai năm sau, lão hoàng đế băng hà, thái tử kế vị xưng đế.
Phí Uyên – vốn là tâm phúc bên mình thái tử – được cất nhắc lên thượng thư tỉnh, trực tiếp nhập nội các, trở thành vị phụ thần trẻ tuổi nhất của bản triều.
Năm hai mươi tám tuổi, hắn quyền cao chức trọng, chưởng giữ đại cục triều đình, được phong thủ phụ nội các.
Hắn, cuối cùng cũng đứng nơi đỉnh cao quyền lực, hoàn thành đại nguyện thề xuống thuở niên thiếu.
Thế nhưng… hắn lại càng lúc càng không vui.
Hắn vẫn lẻ bóng đơn côi, không thê không thiếp.
Hoàng đế nhiều lần ý ban hôn phối, đều bị hắn lễ độ khước từ.
Hắn nói: “Cả đời này, vi thần không nguyện bị tục sự vướng bận.”
Nhưng ta hiểu, hắn là đang sợ.
Hắn sợ bước vào vết xe đổ năm xưa, sợ lại chịu một lần nữa phản bội và thương tổn.
Bi kịch của mẫu thân hắn, đã trở thành một vết thương không bao giờ khép miệng trong tim.
Hắn đem tất cả tinh lực, thời gian, tâm huyết… dốc vào triều chính.
Hắn chỉnh đốn quan lại, thi hành tân luật, làm biết bao điều lợi ích cho lê dân.
Bách tính trong kinh đều tán tụng hắn là “Thanh Thiên đại lão gia.”
Nhưng chỉ có ta rõ, mỗi khi đêm khuya vắng lặng, hắn lại một mình đến nơi ta từng cư ngụ — tiểu viện phía sau Phí phủ.
Nơi ấy, được hắn hạ lệnh phong bế, giữ nguyên vẹn dáng vẻ ngày ta khuất.
Hắn thường ngồi nơi cửa sổ ta từng hay ngồi, ngồi đó suốt một đêm dài.
Hắn không nói một lời, chỉ lặng lẽ ngắm nhìn.
Ngắm bàn trang điểm ta từng dùng, ngắm đóa hải đường ta từng gieo trồng.
Ta phiêu phù bên cạnh hắn, tha thiết muốn khẽ gọi:
“Uyên nhi, đừng như vậy nữa… Mẫu thân đau lòng lắm.”
Nhưng… hắn chẳng nghe thấy.
Hắn vẫn chìm đắm trong thế giới riêng, bị vô tận niềm tưởng niệm và bi ai vây lấy.
Ta nhìn khuôn diện gầy gò của hắn dần héo mòn theo năm tháng, nhìn trong mắt hắn là bóng tối u ám chẳng cách nào tan đi… Tâm ta như dao cắt.
Ta đã dốc hết tâm can để báo thù rửa hận, thế nhưng hài tử của ta… lại vĩnh viễn bị giam cầm trong quá khứ.
Vậy ta phải làm sao đây? Phải làm gì, mới có thể khiến con ta bước ra khỏi cơn mộng mị thương tâm ấy?
12.
Sau khi đăng nhiệm Thủ phụ, việc đầu tiên mà Phí Uyên — không, nay là Thẩm Uyên — làm, chính là vì ta mà kêu oan sửa án.
Mặc dù năm xưa ba ti khẩn cấp hội thẩm, đã minh oan rửa sạch tội danh cho ta, nhưng trong lòng hắn vẫn thấy… chưa đủ.
Hắn muốn để thiên hạ đều biết: Thân mẫu hắn — Thẩm thị Thanh Ninh, là một người trinh liệt hiền đức, là một nữ tử đã bị hàm oan mà chết tức tưởi.
Hắn đích thân soạn thảo tấu chương, thượng tấu lên tân hoàng, cầu xin ban phong tước vị hậu thụy cho ta, đồng thời lập trinh tiết bài phường để biểu dương tiết hạnh.
Tân hoàng cảm niệm công trạng của hắn, lại thương cảm trải sự đời của hắn, lập tức phê chuẩn.
Không những truy phong ta làm Nhất phẩm cáo mệnh phu nhân, lại còn hạ chỉ cho dựng một trinh tiết bài phường nguy nga tráng lệ tại quê nhà ta, để lưu danh hậu thế.
Cùng lúc đó, hoàng đế ra sắc dụ: Dời linh cữu của ta ra khỏi vùng loạn táng, dùng nghi lễ phẩm cấp nhất phẩm cáo mệnh, cử hành lễ táng lại, đưa vào tổ phần của Phí gia.
Không— Không phải tổ phần của Phí gia.
Phí gia… đã không còn tổ phần nữa.
Thẩm Uyên lấy ra tất cả gia sản tích góp, mua một khoảnh đất long mạch ở ngoại thành kinh đô, đích thân xây cho ta một ngôi lăng mộ yên tĩnh tôn nghiêm.
Hắn còn tấu xin hoàng thượng, khôi phục lại danh xưng họ Thẩm của ngoại tộc ta.
Từ đó về sau, hắn không còn mang họ Phí nữa.
Hắn tên là: Thẩm Uyên.
Ngày dời mộ, hắn tự mình phù linh.
Từ loạn táng cốc cho đến phần mộ mới nơi ngoại thành, mấy chục dặm đường, hắn từng bước từng bước, chậm rãi đi hết.
Khoác lễ phục tang dày nặng, sắc mặt tái nhợt, thần tình trang nghiêm.
Bách tính hai bên đường, người người cảm động rơi lệ.
Đến khi linh cữu của ta chầm chậm hạ xuống mộ phần, ta cảm giác… lực lượng trói buộc hồn phách ta bấy lâu, như thể… đã buông lỏng.
Ta không còn bị nhốt giữa Phí phủ nữa. Ta có thể đi theo hài tử của mình, ở cạnh hắn rồi.
Ta lặng lẽ bay bên hắn, dõi theo hắn tự tay lập mộ chí cho ta.
Trên mộ chí, chẳng có gì nhiều. Chỉ một hàng chữ:
“Từ mẫu Thẩm thị Thanh Ninh chi mộ — bất hiếu tử Uyên, lập.”
Sau khi hạ táng, hắn quỳ trước mộ ta, không đứng dậy.
Từ lúc mặt trời lên ba sào, cho đến khi trời ngả bóng tây sơn, hắn vẫn giữ nguyên tư thế ấy.
Bà vú câm già đi theo hầu bên cạnh sốt ruột đến đỏ cả mắt, hết lời khuyên giải, mà hắn vẫn bất động như tượng đá.
Trời… lại đổ mưa.
Giống hệt như ngày ta chết. Lạnh buốt. Đâm thấu xương.
Mưa rơi ướt đẫm áo tang, trượt xuống đôi má gầy guộc. Ta chẳng phân rõ… Ấy là mưa… Hay là nước mắt?
Mười mấy năm qua, ta chưa từng thấy hắn rơi lệ.
Dù chịu bao khổ nhục, chịu bao oan khuất, hắn chưa từng nhỏ một giọt lệ nào.
Thế nhưng hôm nay, nơi đây — nơi chỉ có hai mẹ con ta, hắn đã tháo xuống mọi lớp ngụy trang, mọi sự kiên cường.
Hắn, như một đứa trẻ bị thương, vùi mặt vào bia mộ, mà nức nở.
Từng tiếng, từng tiếng nấc, đau đớn như thú non bị thương đang liếm láp vết máu…