Đáng tiếc, giữa Nhạn Hành và điện hạ, vốn chẳng có đoạn duyên xưa thâm tình như thế.”

“…Bản vương vốn không tin.”

Ta nhịn không được bật cười, cười rồi mới nói: “Thực ra trước khi vào kinh, Nhạn Hành đã sớm dò xét tính tình các vị hoàng tử, tự cho rằng, Mục Vương điện hạ là người có tư chất hơn cả.

Thân Vương tuy giỏi lấy lòng người, nhưng khó gánh trọng trách; Dĩnh Vương chỉ là bắt chước vụng về, hành sự chẳng khác loài khuyển… Tựa như chẳng hề mưu tính ngôi vị, chỉ là cùng Thân Vương diễn một hồi trò đùa mà thôi.”

“Cho nên năm ngoái nàng cố ý đi nhầm phòng, cũng là để gặp bản vương?”

Ta hơi khựng lại.

Khi đó ta vốn không gặp được chàng trong nhã thất.

Xem ra trong một tháng vừa qua, chàng cũng đã điều tra rõ về ta.

“Phải. Khi ấy nghe nói điện hạ hồi kinh, cùng bằng hữu tụ họp nơi đây, lại đúng lúc biểu ca cũng hẹn ta đến, ta bèn nghĩ, nếu giả vờ đi nhầm, có khi được điện hạ để mắt tới.”

Ta mỉm cười: “Nhạn Hành đối với nhan sắc bản thân, cũng có vài phần tự tin.”

Lý Vân Gián đang cầm chén rượu, nghe thế tay khẽ khựng lại.

Chốc lát, cổ tai chàng thoáng ửng đỏ, trầm giọng nói: “Nàng thẳng thắn như vậy, chẳng sợ bản vương đưa nàng vào ngục sao?”

“Nếu điện hạ thật muốn bắt người, cớ sao lại đợi đến khi dấu tích trên chén đã phai, mới đến hỏi tội?”

Ta khẽ cười phản vấn: “Hôm nay mời gặp, chẳng phải vì thấy Nhạn Hành vẫn còn giá trị sử dụng sao?”

Hiện tại ta đã có phủ Công quốc làm hậu thuẫn, lại nhờ điểm trà họa đồ mà được liệt vào hàng tài nữ đất kinh.

Thái hậu cùng bệ hạ đối đãi khác thường, thêm vào đó, vì bảo vệ quận chúa trong thọ yến mà trở thành ân nhân của đương triều Tể tướng.

Tất thảy những gì ta từng trải, nay đều hóa thành quân bài, để ta cùng chàng đối diện mà đàm phán.

“Mục Vương điện hạ, hãy để ta làm Vương phi của ngài.

Ta là người giỏi nắm bắt lòng người, biết tiến biết lùi, tất sẽ là trợ lực trong nội viện cho điện hạ.

Huống chi thân ta vốn yếu đuối nhiều bệnh, tương lai điện hạ thăng quan phát tài… nếu lại có một thê tử chết yểu, chẳng phải càng thêm trọn vẹn?”

Lý Vân Gián nhíu mày không nói. Nhã phòng rơi vào một khoảng trầm mặc kéo dài.

Mãi đến lúc sắp biệt ly, chàng mới trầm giọng hỏi ta: “Ôn Nhạn Hành, nàng đã biết thân thể mình suy nhược, cớ sao còn tự làm khổ, phải tranh đoạt hậu vị cho bằng được?”

Ta trầm mặc một hồi, mới đáp: “Khi ta mười hai tuổi—”

“Nói thật.”

“…Ta không muốn bị người đời lãng quên.”

Ta bình thản nhìn sâu vào mắt chàng: “Ta tự thấy mình chẳng thua kém ai, văn chương, thư họa ta viết, chưa hẳn thua đám sĩ phu thời nay.

Dù không thể làm quan, cũng luôn giữ chí vì nước.

Nếu chẳng vì thân thể yếu nhược, việc ta có thể làm, tuyệt không dừng lại ở đây.”

Giọng ta khẽ ngưng, lại nói tiếp: “Ta không cam lòng bị vùi lấp, cũng chẳng muốn cuối đời chỉ nhận bốn chữ ‘hồng nhan bạc mệnh’ làm lời tiễn biệt…

Một kẻ thông tuệ như ta, lẽ ra phải có một nét bút lưu danh trên thanh sử.”

Lý Vân Gián ngẩn người, tựa hồ chẳng ngờ ta lại mang chấp niệm sâu sắc đến thế.

Ta cười giễu chính mình: “Song dẫu mang hoài bão ngút trời, trong khoảng năm tháng hữu hạn, phương pháp duy nhất mà ta nghĩ ra để lưu danh sử sách — chỉ có một con đường làm Hoàng hậu.

Mà điều ấy, không thể thiếu sự giúp đỡ của điện hạ.”

Ta nhìn chàng hồi lâu, rốt cuộc chàng dời mắt đi.

“Hai bên cùng có lợi.” Chàng trầm ổn nói: “Bản vương sẽ giúp nàng.”

Ta đưa mắt nhìn theo bóng lưng chàng khuất sau cửa.

— May mà, chàng đã tin.

10
Ta xưa nay vẫn cho rằng, một người hành sự chưa hẳn phải có lý do gì rõ ràng.

Tâm hướng nơi nào, ý động nơi ấy, Thế thôi.

Chỉ tiếc thế nhân lại ưa truy xét căn nguyên.

Ngay cả bậc thanh lưu cứng cỏi như Mục Vương điện hạ, cũng chẳng thể thoát khỏi tục lệ phàm trần ấy.

Rời trà lâu, trở về phủ Quốc Công, ta lại bất ngờ gặp Thế Cảnh nơi hành lang quanh co.

Từ ngày bị Quốc Công gia quở trách, hắn mang thương tích bị giam trong từ đường hơn nửa tháng.

Về sau được tha, lại bận rộn việc án vụ tại Đại Lý Tự, nên vẫn chưa có dịp tương kiến.

Nay gặp lại, hôn ước giữa ta và hắn sớm đã thành hư vô.

Ánh mắt giao nhau, trong phút chốc, chẳng lời nào cất lên.