13.
Chiến loạn chấm dứt, Dự Vương đăng cơ, đại xá thiên hạ.
Chỉ một phẩy tay, hắn thả hết số tàn binh của địch quốc, bách tính vui mừng rơi lệ, khen ngợi là minh quân.
Dẫu sao, những người kia cũng là kẻ khốn khổ bị cuốn vào cơn binh biến.
Hôm ấy, ta một mạch tìm mấy người vừa trở về, hỏi họ có từng gặp ba người kia – Lý Ung, Vương Nhữ Chi, và Tú Tài.
Ai cũng lắc đầu không biết.
Chiến trường vô tình, bốn năm chinh chiến, người chết lên tới hàng triệu.
Trở về nhà, A Kiều nhìn thấy đôi mắt sưng húp của ta, thức thời không hé một lời.
Vài hôm sau, Vương Nhược Phủ mang đến một tin lành…
“Hai tháng nữa, A Kiều có thể tham gia kỳ thi Thu Hôi. Nếu trúng tuyển cử nhân, sang năm sẽ được vào kinh ứng thí đại khoa!”
Vương Nhược Phủ sợ quấy rầy lòng A Kiều, vẫn nhẫn nại đợi đến khi khoa Thu kết thúc mới đến tìm nàng đi xem bảng vàng.
Chạng vạng hôm ấy, hai người một trước một sau, thần sắc trầm mặc mà trở về nhà.
Ta đã chuẩn bị sẵn một bàn thức ăn ngon, nhưng thấy sắc mặt hai đứa như vừa dự tang, bèn chỉ cười, nói là món ăn dân dã.
Bất chợt, A Kiều nhào vào lòng ta, còn Vương Nhược Phủ lén lau lệ nơi khóe mắt.
“Nương ơi, con đỗ rồi. Năm sau có thể vào kinh thi đình!”
Ta hít sâu một hơi lạnh, ngây ngẩn mất mấy khắc mới hoàn hồn, ôm chặt lấy A Kiều.
“A Kiều, con thật khiến người làm mẹ này nở mày nở mặt!”
Mùa xuân năm sau, A Kiều vừa tròn mười sáu tuổi, Vương Nhược Phủ lo người ngoài phát giác thân phận, bèn dịu dàng khuyên nàng tổ chức hôn lễ.
Ta nhìn A Kiều mặc hỷ phục đỏ thắm, cài hoa đỏ lên tóc, cười đến rơi cả lệ.
“Con của ta, dù là nam hay nữ, cũng đều xinh đẹp tuyệt trần!”
Một tháng sau, A Kiều lên xe ngựa, từ sau rèm vẫy tay biệt Vương Nhược Phủ.
Còn ta thì quay về quê cũ, lập y quan trủng cho ba người họ: Lý Ung, Vương Nhữ Chi, và Tú Tài.
Cắm ba nén hương, cũng xem như kết thúc đoạn ân tình năm xưa.
14.
Sau khi vào kinh, A Kiều ở nhà ôn tập chuẩn bị cho khoa thi mùa xuân.
Ta vốn nhàn rỗi, bèn đến ngã tư mở gánh bán hồ lạt thang.
Mỗi khi A Kiều đọc sách mệt mỏi, thường qua giúp một tay.
Đợi đến kỳ thi kết thúc, A Kiều ngủ liền một mạch đến tận ngày treo bảng.
Tỉnh dậy rồi, nàng thì thầm với ta: “Nương ơi, con gặp lại Cẩu Đản… không rõ hắn có nhận ra con không”
Ta chấn động trong lòng, tay cầm vá múc canh cũng run rẩy không thôi.
“Đã sáu bảy năm trôi qua, ai còn nhớ nữa? Hắn lại đâu có ngờ được con là nữ giả nam, vào kinh ứng thí”
A Kiều nhẹ gật đầu.
Cơm nước vừa xong, có nhóm người tới cửa, nói muốn dẫn A Kiều nhập cung diện thánh.
Ta ở nhà nôn nao thấp thỏm, nghĩ đến bao nhiêu chuyện lành dữ.
Đến tận chiều tà, A Kiều được xe ngựa đưa về.
Ta vừa mở cửa, liền òa lên khóc, nhào vào lòng nàng.
“Chỉ cần không sao là được, không đỗ cũng chẳng sao, nương chỉ cầu con bình an vô sự!”
Vì khoa này, thí sinh phần lớn tướng mạo bình thường, chỉ riêng A Kiều tuấn tú phi phàm.
Dù văn bài không phải xuất sắc nhất, song bởi khí độ hơn người, hoàng đế đích thân phong nàng làm thám hoa.
Thái giám chắp tay báo tin mừng, ta nhét vào tay y một khối kim nguyên bảo.
Thái giám càng thêm tươi cười, lại báo một tin tốt lành nữa.
“Ngày mai, trong nhà còn có người tới báo hỷ đó!”
Ta và A Kiều nhìn nhau kinh ngạc.
Ngoài thám hoa ra, còn hỷ sự nào nữa?
Thái giám úp úp mở mở không chịu nói, chỉ tay về phía cửa cung, vẻ mặt khó xử.
“Phu nhân cũng đừng hỏi nữa, lỡ tiết lộ trước, cái đầu tiểu nhân cũng chẳng giữ nổi đâu!”
Ngày hôm sau, trong nhà chật kín người do nội đình phái đến.
Đợi đến khi công công tuyên chỉ xong, ta và A Kiều quỳ bệt trên đất, sắc mặt tái nhợt.
Y tò mò hỏi:
“Sao thế, vui đến phát ngốc rồi ư?”
“Cũng đúng thôi, con trai các ngươi sắp cưới công chúa, hỷ sự lớn như vậy, ai mà chẳng chịu không nổi!”
Tân đế nhiều năm chưa có con, chính thất mất sớm, chỉ lưu lại một ái nữ.
Ai cưới công chúa, tức là người mà thiên tử tín nhiệm nhất.
Nhưng A Kiều hối hận rồi.
Nàng quỳ xuống, dập đầu mà khóc:
“Nương, con sai rồi. Con không nên vào kinh thi cử. Con không nên tham vọng. Có được cử nhân là đủ rồi… cần gì… cần gì phải đến mức này..”
Ta kéo nàng dậy:”Chạy, ta với con phải trốn khỏi đây, càng xa càng tốt!”
Vài ngày sau, ta vừa chất xong hành lý cuối cùng lên xe ngựa, đã thấy một thiếu nữ dung nhan như tiên giáng trần, đứng dưới tán ô.
Nàng mỉm cười với A Kiều:
“Ngươi chính là vị lang quân mà phụ hoàng… không, phụ thân ta đã chỉ định cho ta sao?”
Ta rít mạnh một hơi khí lạnh.
Hỏng rồi, phen này chạy không khỏi.
A Kiều bối rối, lời nói trước sau lộn xộn, quýnh quáng chẳng thôi.
“Công chúa, vi thần không thể cưới người!”
Vẻ giận dữ hiện lên mặt Vinh Hoa, nàng ném mạnh chiếc ô lên người A Kiều.
“Ngươi có tư cách nói câu đó với bản cung sao?”
Vinh Hoa vội vàng kéo A Kiều vào trong viện, không kịp che giấu thân phận, đóng sầm cửa lại, gạt ta ra ngoài.
A Kiều không dám nhìn thẳng nàng: “Tại hạ… đã có thê thất..”
“Vậy thì bỏ, hoặc giết đi, chuyện cỏn con như thế còn cần bản cung chỉ dạy sao?”
Tay A Kiều giấu trong tay áo run bần bật.
Đúng lúc ấy, cửa gỗ bị người đạp tung.
Hai người quay đầu nhìn, chỉ thấy Vương Nhược Phủ với sắc mặt âm trầm đang đứng đó.
“Vinh Hoa, người muốn giết ta sao?”
Vinh Hoa nhíu mày: “Sao lại là ngươi?!”
Vương Nhược Phủ có đường huynh từng lập công vì đứng về phe tân đế, được sắc phong làm Thượng thư bộ Hộ.
Nghe nói đường huynh thất lạc với thê tử, sau khi trở về từ Dương Châu chẳng tìm thấy tung tích, bèn đưa huynh muội nhà nàng nhập kinh, đưa đi dự không ít yến tiệc trong cung.
Ta và A Kiều nấp sau lưng Nhược Phủ, sợ sệt nhìn hai nữ nhân đối mặt như đối địch.
Vương Nhược Phủ lạnh lùng cười:
“Chẳng lẽ công chúa muốn giết người nhà trọng thần, chỉ vì đoạt phu?”