34

Ngày cưới, tôi không xuất hiện.

Bố mẹ anh nổi giận đùng đùng.

Anh đi khắp nơi tìm kiếm tôi.

Cho đến khi hỏi đồng nghiệp, anh mới biết tôi đã đến Congo (Kinshasa).

Anh không chịu tin, làm loạn ở đài truyền hình, suýt chút nữa bị cảnh sát bắt.

Tôi thở dài.

Không hiểu nổi.

Nếu anh đã có người khác trong lòng, vậy tôi ở đâu có liên quan gì đến anh?

Nhưng không muốn đồng nghiệp khó xử, tôi vẫn gọi một cuộc video cho Kỷ Thanh.

Ngay khoảnh khắc cuộc gọi được kết nối, tôi nín thở.

Trong màn hình, anh trông tàn tạ, tóc tai bù xù.

Ánh sáng xung quanh mờ tối, khói thuốc lượn lờ.

Dưới sàn nhà, đầy những chai rượu nằm lăn lóc.

“Nhiếp Lan??”

“Thật là em sao?”

Anh ngây người nhìn tôi, dụi mắt mấy lần.

“… Em giỏi thật đấy.”

Anh bỗng cười nhạt, vùi mặt vào lòng bàn tay.

“Chỉ vì mấy lời của Kiều Ninh, em liền giận dỗi bỏ đến tận châu Phi?”

“Em bị bệnh à?”

Cơn giận trong tôi bùng lên ngay lập tức.

Tôi cảm thấy việc liên lạc với anh đúng là điên rồ.

Định cúp máy, nhưng rồi nhìn thấy qua kẽ tay anh, từng giọt nước mắt lớn rơi xuống.

“Em làm sao có thể… lấy mạng mình ra làm trò đùa?

Sao em có thể khiến anh lo lắng đến thế?!?”

Tôi bỗng cảm thấy thật nực cười.

“Anh lo lắng cho tôi?

Mối quan hệ của chúng ta bắt đầu từ việc anh dùng tôi để đối phó bố mẹ, còn tôi coi anh như cái bóng để tự an ủi. Chẳng có chút tình cảm chân thật nào cả…”

Anh hét lên, cắt ngang tôi.

“Chết tiệt, làm sao lại không có tình cảm thật?!

Em có biết hôm đó, khi tôi ra ngoài tìm Kiều Ninh, trong lòng tôi chỉ nghĩ đến em! Tôi lo em đã uống quá nhiều, làm sao về nhà được!

Khi máy ảnh của em bị vỡ, tôi tìm khắp các cửa hàng máy ảnh trong thành phố. Họ bảo mẫu đó quá cũ, không có nữa. Tôi nhờ bạn bè ở nước ngoài tìm, rồi tự mình bay sang lấy về!

Em biến mất không một lời, họ nói em đến Congo (Kinshasa). Tôi tra cứu về đất nước đó, lo sợ đến mức cả đêm không ngủ được!

Em khiến tôi yêu em, rồi lại vứt bỏ tôi!

Sao em có thể làm vậy với tôi?!?”

Mắt anh đỏ hoe.

Trông anh như một con chó hoang bị bỏ rơi trước cửa nhà.

“… Về được không?”

Anh lấy ra chiếc nhẫn mà tôi đã ném đi, giọng nói đầy vẻ van xin:

“Ngày cưới có thể dời lại. Cả đời này, anh chỉ cưới mình em.”

Chúng tôi nhìn nhau rất lâu.

Cuối cùng, tôi bật cười.

“Kỷ Thanh, anh thậm chí chưa bao giờ thực sự hiểu tôi, làm sao nói được là yêu?

Kiều Ninh là ai, anh là ai, mà xứng đáng để tôi giận dỗi?”

“Tôi quay lại, chỉ vì người tôi yêu đang ở đây.”

Đồng tử anh co rút lại, ánh mắt đau đớn, rồi anh gạt hết mọi thứ trên bàn xuống đất.

“Là ai? Người đó là ai?!?”

Tôi lạnh lùng cúp máy.

“Anh không cần biết.”

35

Tôi quay lại với công việc phóng viên.

Sau ba năm, tình hình ở Congo (Kinshasa) thậm chí còn tồi tệ hơn trước.

Các vùng do quân đội vũ trang kiểm soát mở rộng đến mức chưa từng có.

Khủng hoảng lương thực, dịch tả, bạo lực tình dục, bắt cóc xảy ra liên tiếp.

Nơi đây dường như đã trở thành “vùng đất bị Chúa bỏ rơi”.

Mỗi ngày chứng kiến những cảnh tượng như địa ngục.

Tôi tự hỏi.

Những gì chúng tôi đang làm liệu có ý nghĩa gì không?

Đối với tôi, dường như chỉ là ghi lại vòng lặp bi kịch.

Thế giới thấy được nỗi đau khổ ở đây, nhưng sau đó thì sao?

Còn đối với các bác sĩ không biên giới, cứu chữa của họ là duy trì hy vọng hay chỉ kéo dài nỗi đau?

Không ai có thể nói chắc, sống sót ở nơi như thế này là may mắn hay bất hạnh.

Vài tháng sau, Adam báo cho tôi một tin tốt.

Anh đã tìm được năm đứa trẻ trong nhóm năm xưa, trong đó có Jean và Marie.

Hôm đó, chúng đã trốn thoát thành công.

Sau này, chúng liên lạc được với người thân và hiện đang sống ở nhà họ hàng tại Kisangani.

Tin này như một tia sáng rọi vào bóng tối.

Tôi nhanh chóng đến gặp chúng.

Khi xe vừa đến nơi hẹn, Marie đã chạy vội ra.

Cô bé nhảy vào lòng tôi, nước mắt lưng tròng.

“Lan!! Cuối cùng chị cũng đến!”

Cô bé cao lớn hơn nhiều, giờ đã là một thiếu nữ.

Marie nôn nóng nhìn vào trong xe, hỏi tôi.

“Bác sĩ đâu? Sao anh ấy không đến cùng chị?”

Tôi sững lại: “Anh ấy bận lắm.”

Marie lập tức siết chặt tay: “… Anh ấy gặp chuyện rồi sao?”

Những đứa trẻ từng đối mặt với cái chết thường rất nhạy cảm với những lời lấp lửng như vậy.

Tôi quả quyết lắc đầu.

“Không, anh ấy không sao. Chị sẽ cho em xem.”

Tôi lục tìm trong điện thoại.

Nhưng nhận ra mình không có bức ảnh nào của Kỷ Trừng.

Vì không dám nhìn, sau khi về nước, tôi đã cất hết chúng vào máy tính.

Lật tìm mãi, cuối cùng tôi chỉ thấy một bức ảnh của Kỷ Thanh.

Anh mặc áo blouse trắng, đang ngồi dưới ánh đèn vàng mờ nhạt, xem bệnh án.

Trông anh giống Kỷ Trừng đến kỳ lạ.

Marie nhìn thấy bức ảnh đó, cuối cùng tin tưởng, vui mừng nhảy cẫng lên.

Cô bé kéo tay anh trai, nói:

“Em sau này cũng muốn làm bác sĩ!”

Mấy đứa trẻ khác cũng hùa theo:

“Em cũng muốn!”

“Em muốn cứu người!”

Tôi xoa đầu chúng, quay sang hỏi Jean, cậu bé luôn im lặng từ nãy đến giờ.

“Còn em thì sao, Jean? Em muốn làm gì sau này?”

Jean liếc nhìn chiếc máy ảnh treo trên cổ tôi, có chút ngại ngùng.

“… Em muốn làm phóng viên.”

Tôi sững người.

“Em muốn giống như chị, để thế giới thấy những người đang chịu khổ nạn.

Nếu họ được nhìn thấy, có lẽ sẽ có người sẵn sàng giúp đỡ…”

Tôi cố kìm nước mắt, ôm chặt tất cả bọn trẻ vào lòng.

Nếu Kỷ Trừng còn sống, chắc chắn anh sẽ rất vui.

Những hạt giống chúng tôi vô tình gieo xuống, giờ đã bắt đầu nảy mầm.

Trước khi rời đi, tôi tặng chiếc máy ảnh nhỏ của mình cho Jean.

Tôi tặng ống nghe và sách y khoa của Kỷ Trừng để lại cho Marie và các em khác.

Chúng phấn khích đến đỏ bừng mặt.

Đến khi xe đi xa, chúng vẫn đứng bên vệ đường, vẫy tay chào, nụ cười rạng rỡ.

Tôi nghĩ, có lẽ tất cả vẫn có ý nghĩa.

Sức mạnh cá nhân nhỏ bé, khó lòng thay đổi hiện trạng.

Nhưng có thể thắp lên hy vọng cho những cá nhân khác về một tương lai.

Những đứa trẻ này, dù lớn lên trong nghịch cảnh, vẫn mong muốn bằng cả vết thương trên người mình, nâng đỡ một tương lai tốt đẹp hơn.

Giống như lời Kỷ Trừng từng nói:

“Có hy vọng, sẽ có tương lai.”

36

Vài tháng nữa trôi qua.

Kế hoạch tìm kiếm thi thể Kỷ Trừng của tôi không có kết quả.

Tôi đã đến khu rừng đó nhiều lần.

Nhưng vì khi ấy là ban đêm, tôi hoàn toàn không biết mình đã chạy theo hướng nào.

Cuối cùng, đành từ bỏ.

Tôi bắt đầu sắp xếp lại những bức ảnh cũ,

Ghi chép từng câu chuyện về Kỷ Trừng trên blog cá nhân.

Nhiều chi tiết, sau ba năm, đã trở nên mờ nhạt.

Ban đầu, tôi chỉ sợ rằng theo thời gian, mình sẽ quên thêm nhiều thứ, nên mới viết lại.

Không ngờ, bài viết lại trở nên nổi tiếng.

Hàng loạt bình luận tràn ngập, muốn biết thêm về câu chuyện của anh.

Có người nói:

“Người Trung Quốc mang trong mình bản năng canh tác. Ở bất cứ đâu, họ cũng có thể tạo ra một khu vườn.”

Có bệnh nhân cũ nhận ra anh.

“Bác sĩ Kỷ thật sự rất tốt. Khi mẹ tôi ốm đã hơi lẫn, nhưng anh ấy nói chuyện với bà lúc nào cũng kiên nhẫn.”

“Anh ấy từng diễn ảo thuật cho con gái tôi xem, còn bị trưởng khoa tưởng là đánh bài, mắng cho một trận ra trò!”

Từ những bình luận đó, tôi dần ghép lại hình ảnh của anh trước khi chúng tôi gặp nhau.

Không lâu sau, tôi nhận được cuộc gọi video từ Kỷ Thanh.

Anh gửi ảnh chụp bài viết của tôi trên blog, hỏi:

“Là em sao?”

Tôi thẳng thắn thừa nhận.

“Đúng.”

Anh khựng lại, ánh mắt đầy chua xót.

“Thì ra em đang nói về anh trai anh…”

“Đúng vậy.”

“Đáng lẽ anh nên nghĩ ra… Anh đáng lẽ phải nghĩ ra!

Không ngờ em luôn nhìn anh như vậy, anh lại tưởng em thật sự yêu anh!”

Anh cúi đầu, vẻ mặt suy sụp.

“Anh ấy… giờ thế nào?”

Tôi chưa viết đến phần sau câu chuyện, nên anh không biết.

Tôi lạnh lùng đáp:

“Anh ấy không ổn.

Anh ấy đã chết từ ba năm trước rồi.”

Chiếc điện thoại rơi khỏi tay Kỷ Thanh.

Nặng nề rơi xuống đất, phát ra tiếng vang chói tai.

Một lúc lâu sau, anh run rẩy nhặt lên, màn hình mới khôi phục.

Giọng anh gần như vỡ vụn:

“Anh ấy chết rồi sao?

Tại sao anh không biết?!

Sao em không nói cho anh biết?!?”

“Anh nghĩ sao?”

Tôi mỉa mai:

“Bao nhiêu năm qua, nhà các người có ai quan tâm đến anh ấy không?”

Kỷ Thanh run rẩy dữ dội, không dám nhìn thẳng vào tôi.

Lần đầu tiên tôi gặp bố mẹ anh, tôi từng dò hỏi xem anh có anh chị em gì không.

Bố mẹ anh hờ hững phẩy tay:

“Không có.”

Còn Kỷ Thanh nói:

“Trước đây có một người, nhưng coi như đã chết rồi.”

Tôi hỏi ý anh là sao.

Anh đập vỡ bát, lớn tiếng cảnh cáo:

“Trong nhà này, không được nhắc đến anh ta.”

Anh hận Kỷ Trừng.

Hận anh ấy vì đã trốn khỏi gia đình, để anh trở thành nạn nhân tiếp theo.

Bố mẹ họ càng hận Kỷ Trừng.

Hận vì anh ấy là con họ sinh ra, nhưng lại không thể kiểm soát được.

Vậy thì tôi làm sao có thể nói cho họ biết?

Tôi ngẩng cao đầu, giọng lạnh lùng:

“Đừng rơi những giọt nước mắt cá sấu đó nữa.

Anh nghĩ anh ấy vì sao lại đến một nơi như thế này?

Tất cả đều là do các người ép anh ấy.”

Kỷ Thanh luống cuống cúp máy.
34

Ngày cưới, tôi không xuất hiện.

Bố mẹ anh nổi giận đùng đùng.

Anh đi khắp nơi tìm kiếm tôi.

Cho đến khi hỏi đồng nghiệp, anh mới biết tôi đã đến Congo (Kinshasa).

Anh không chịu tin, làm loạn ở đài truyền hình, suýt chút nữa bị cảnh sát bắt.

Tôi thở dài.

Không hiểu nổi.

Nếu anh đã có người khác trong lòng, vậy tôi ở đâu có liên quan gì đến anh?

Nhưng không muốn đồng nghiệp khó xử, tôi vẫn gọi một cuộc video cho Kỷ Thanh.

Ngay khoảnh khắc cuộc gọi được kết nối, tôi nín thở.

Trong màn hình, anh trông tàn tạ, tóc tai bù xù.

Ánh sáng xung quanh mờ tối, khói thuốc lượn lờ.

Dưới sàn nhà, đầy những chai rượu nằm lăn lóc.

“Nhiếp Lan??”

“Thật là em sao?”

Anh ngây người nhìn tôi, dụi mắt mấy lần.

“… Em giỏi thật đấy.”

Anh bỗng cười nhạt, vùi mặt vào lòng bàn tay.

“Chỉ vì mấy lời của Kiều Ninh, em liền giận dỗi bỏ đến tận châu Phi?”

“Em bị bệnh à?”

Cơn giận trong tôi bùng lên ngay lập tức.

Tôi cảm thấy việc liên lạc với anh đúng là điên rồ.

Định cúp máy, nhưng rồi nhìn thấy qua kẽ tay anh, từng giọt nước mắt lớn rơi xuống.

“Em làm sao có thể… lấy mạng mình ra làm trò đùa?

Sao em có thể khiến anh lo lắng đến thế?!?”

Tôi bỗng cảm thấy thật nực cười.

“Anh lo lắng cho tôi?

Mối quan hệ của chúng ta bắt đầu từ việc anh dùng tôi để đối phó bố mẹ, còn tôi coi anh như cái bóng để tự an ủi. Chẳng có chút tình cảm chân thật nào cả…”

Anh hét lên, cắt ngang tôi.

“Chết tiệt, làm sao lại không có tình cảm thật?!

Em có biết hôm đó, khi tôi ra ngoài tìm Kiều Ninh, trong lòng tôi chỉ nghĩ đến em! Tôi lo em đã uống quá nhiều, làm sao về nhà được!

Khi máy ảnh của em bị vỡ, tôi tìm khắp các cửa hàng máy ảnh trong thành phố. Họ bảo mẫu đó quá cũ, không có nữa. Tôi nhờ bạn bè ở nước ngoài tìm, rồi tự mình bay sang lấy về!

Em biến mất không một lời, họ nói em đến Congo (Kinshasa). Tôi tra cứu về đất nước đó, lo sợ đến mức cả đêm không ngủ được!

Em khiến tôi yêu em, rồi lại vứt bỏ tôi!

Sao em có thể làm vậy với tôi?!?”

Mắt anh đỏ hoe.

Trông anh như một con chó hoang bị bỏ rơi trước cửa nhà.

“… Về được không?”

Anh lấy ra chiếc nhẫn mà tôi đã ném đi, giọng nói đầy vẻ van xin:

“Ngày cưới có thể dời lại. Cả đời này, anh chỉ cưới mình em.”

Chúng tôi nhìn nhau rất lâu.

Cuối cùng, tôi bật cười.

“Kỷ Thanh, anh thậm chí chưa bao giờ thực sự hiểu tôi, làm sao nói được là yêu?

Kiều Ninh là ai, anh là ai, mà xứng đáng để tôi giận dỗi?”

“Tôi quay lại, chỉ vì người tôi yêu đang ở đây.”

Đồng tử anh co rút lại, ánh mắt đau đớn, rồi anh gạt hết mọi thứ trên bàn xuống đất.

“Là ai? Người đó là ai?!?”

Tôi lạnh lùng cúp máy.

“Anh không cần biết.”

35

Tôi quay lại với công việc phóng viên.

Sau ba năm, tình hình ở Congo (Kinshasa) thậm chí còn tồi tệ hơn trước.

Các vùng do quân đội vũ trang kiểm soát mở rộng đến mức chưa từng có.

Khủng hoảng lương thực, dịch tả, bạo lực tình dục, bắt cóc xảy ra liên tiếp.

Nơi đây dường như đã trở thành “vùng đất bị Chúa bỏ rơi”.

Mỗi ngày chứng kiến những cảnh tượng như địa ngục.

Tôi tự hỏi.

Những gì chúng tôi đang làm liệu có ý nghĩa gì không?

Đối với tôi, dường như chỉ là ghi lại vòng lặp bi kịch.

Thế giới thấy được nỗi đau khổ ở đây, nhưng sau đó thì sao?

Còn đối với các bác sĩ không biên giới, cứu chữa của họ là duy trì hy vọng hay chỉ kéo dài nỗi đau?

Không ai có thể nói chắc, sống sót ở nơi như thế này là may mắn hay bất hạnh.

Vài tháng sau, Adam báo cho tôi một tin tốt.

Anh đã tìm được năm đứa trẻ trong nhóm năm xưa, trong đó có Jean và Marie.

Hôm đó, chúng đã trốn thoát thành công.

Sau này, chúng liên lạc được với người thân và hiện đang sống ở nhà họ hàng tại Kisangani.

Tin này như một tia sáng rọi vào bóng tối.

Tôi nhanh chóng đến gặp chúng.

Khi xe vừa đến nơi hẹn, Marie đã chạy vội ra.

Cô bé nhảy vào lòng tôi, nước mắt lưng tròng.

“Lan!! Cuối cùng chị cũng đến!”

Cô bé cao lớn hơn nhiều, giờ đã là một thiếu nữ.

Marie nôn nóng nhìn vào trong xe, hỏi tôi.

“Bác sĩ đâu? Sao anh ấy không đến cùng chị?”

Tôi sững lại: “Anh ấy bận lắm.”

Marie lập tức siết chặt tay: “… Anh ấy gặp chuyện rồi sao?”

Những đứa trẻ từng đối mặt với cái chết thường rất nhạy cảm với những lời lấp lửng như vậy.

Tôi quả quyết lắc đầu.

“Không, anh ấy không sao. Chị sẽ cho em xem.”

Tôi lục tìm trong điện thoại.

Nhưng nhận ra mình không có bức ảnh nào của Kỷ Trừng.

Vì không dám nhìn, sau khi về nước, tôi đã cất hết chúng vào máy tính.

Lật tìm mãi, cuối cùng tôi chỉ thấy một bức ảnh của Kỷ Thanh.

Anh mặc áo blouse trắng, đang ngồi dưới ánh đèn vàng mờ nhạt, xem bệnh án.

Trông anh giống Kỷ Trừng đến kỳ lạ.

Marie nhìn thấy bức ảnh đó, cuối cùng tin tưởng, vui mừng nhảy cẫng lên.

Cô bé kéo tay anh trai, nói:

“Em sau này cũng muốn làm bác sĩ!”

Mấy đứa trẻ khác cũng hùa theo:

“Em cũng muốn!”

“Em muốn cứu người!”

Tôi xoa đầu chúng, quay sang hỏi Jean, cậu bé luôn im lặng từ nãy đến giờ.

“Còn em thì sao, Jean? Em muốn làm gì sau này?”

Jean liếc nhìn chiếc máy ảnh treo trên cổ tôi, có chút ngại ngùng.

“… Em muốn làm phóng viên.”

Tôi sững người.

“Em muốn giống như chị, để thế giới thấy những người đang chịu khổ nạn.

Nếu họ được nhìn thấy, có lẽ sẽ có người sẵn sàng giúp đỡ…”

Tôi cố kìm nước mắt, ôm chặt tất cả bọn trẻ vào lòng.

Nếu Kỷ Trừng còn sống, chắc chắn anh sẽ rất vui.

Những hạt giống chúng tôi vô tình gieo xuống, giờ đã bắt đầu nảy mầm.

Trước khi rời đi, tôi tặng chiếc máy ảnh nhỏ của mình cho Jean.

Tôi tặng ống nghe và sách y khoa của Kỷ Trừng để lại cho Marie và các em khác.

Chúng phấn khích đến đỏ bừng mặt.

Đến khi xe đi xa, chúng vẫn đứng bên vệ đường, vẫy tay chào, nụ cười rạng rỡ.

Tôi nghĩ, có lẽ tất cả vẫn có ý nghĩa.

Sức mạnh cá nhân nhỏ bé, khó lòng thay đổi hiện trạng.

Nhưng có thể thắp lên hy vọng cho những cá nhân khác về một tương lai.

Những đứa trẻ này, dù lớn lên trong nghịch cảnh, vẫn mong muốn bằng cả vết thương trên người mình, nâng đỡ một tương lai tốt đẹp hơn.

Giống như lời Kỷ Trừng từng nói:

“Có hy vọng, sẽ có tương lai.”

36

Vài tháng nữa trôi qua.

Kế hoạch tìm kiếm thi thể Kỷ Trừng của tôi không có kết quả.

Tôi đã đến khu rừng đó nhiều lần.

Nhưng vì khi ấy là ban đêm, tôi hoàn toàn không biết mình đã chạy theo hướng nào.

Cuối cùng, đành từ bỏ.

Tôi bắt đầu sắp xếp lại những bức ảnh cũ,

Ghi chép từng câu chuyện về Kỷ Trừng trên blog cá nhân.

Nhiều chi tiết, sau ba năm, đã trở nên mờ nhạt.

Ban đầu, tôi chỉ sợ rằng theo thời gian, mình sẽ quên thêm nhiều thứ, nên mới viết lại.

Không ngờ, bài viết lại trở nên nổi tiếng.

Hàng loạt bình luận tràn ngập, muốn biết thêm về câu chuyện của anh.

Có người nói:

“Người Trung Quốc mang trong mình bản năng canh tác. Ở bất cứ đâu, họ cũng có thể tạo ra một khu vườn.”

Có bệnh nhân cũ nhận ra anh.

“Bác sĩ Kỷ thật sự rất tốt. Khi mẹ tôi ốm đã hơi lẫn, nhưng anh ấy nói chuyện với bà lúc nào cũng kiên nhẫn.”

“Anh ấy từng diễn ảo thuật cho con gái tôi xem, còn bị trưởng khoa tưởng là đánh bài, mắng cho một trận ra trò!”

Từ những bình luận đó, tôi dần ghép lại hình ảnh của anh trước khi chúng tôi gặp nhau.

Không lâu sau, tôi nhận được cuộc gọi video từ Kỷ Thanh.

Anh gửi ảnh chụp bài viết của tôi trên blog, hỏi:

“Là em sao?”

Tôi thẳng thắn thừa nhận.

“Đúng.”

Anh khựng lại, ánh mắt đầy chua xót.

“Thì ra em đang nói về anh trai anh…”

“Đúng vậy.”

“Đáng lẽ anh nên nghĩ ra… Anh đáng lẽ phải nghĩ ra!

Không ngờ em luôn nhìn anh như vậy, anh lại tưởng em thật sự yêu anh!”

Anh cúi đầu, vẻ mặt suy sụp.

“Anh ấy… giờ thế nào?”

Tôi chưa viết đến phần sau câu chuyện, nên anh không biết.

Tôi lạnh lùng đáp:

“Anh ấy không ổn.

Anh ấy đã chết từ ba năm trước rồi.”

Chiếc điện thoại rơi khỏi tay Kỷ Thanh.

Nặng nề rơi xuống đất, phát ra tiếng vang chói tai.

Một lúc lâu sau, anh run rẩy nhặt lên, màn hình mới khôi phục.

Giọng anh gần như vỡ vụn:

“Anh ấy chết rồi sao?

Tại sao anh không biết?!

Sao em không nói cho anh biết?!?”

“Anh nghĩ sao?”

Tôi mỉa mai:

“Bao nhiêu năm qua, nhà các người có ai quan tâm đến anh ấy không?”

Kỷ Thanh run rẩy dữ dội, không dám nhìn thẳng vào tôi.

Lần đầu tiên tôi gặp bố mẹ anh, tôi từng dò hỏi xem anh có anh chị em gì không.

Bố mẹ anh hờ hững phẩy tay:

“Không có.”

Còn Kỷ Thanh nói:

“Trước đây có một người, nhưng coi như đã chết rồi.”

Tôi hỏi ý anh là sao.

Anh đập vỡ bát, lớn tiếng cảnh cáo:

“Trong nhà này, không được nhắc đến anh ta.”

Anh hận Kỷ Trừng.

Hận anh ấy vì đã trốn khỏi gia đình, để anh trở thành nạn nhân tiếp theo.

Bố mẹ họ càng hận Kỷ Trừng.

Hận vì anh ấy là con họ sinh ra, nhưng lại không thể kiểm soát được.

Vậy thì tôi làm sao có thể nói cho họ biết?

Tôi ngẩng cao đầu, giọng lạnh lùng:

“Đừng rơi những giọt nước mắt cá sấu đó nữa.

Anh nghĩ anh ấy vì sao lại đến một nơi như thế này?

Tất cả đều là do các người ép anh ấy.”

Kỷ Thanh luống cuống cúp máy.