37
Vài ngày sau, bố mẹ Kỷ Thanh tìm đến tôi.
Họ nói, Kỷ Thanh đã mất tích.
Tôi mới biết, hôm đó anh trở về nhà và đập phá tan tành mọi thứ.
Anh nói, tất cả đều là lỗi của bố mẹ.
Nếu không phải vì họ ép buộc Kỷ Trừng, anh ấy đã không phải chạy đến Congo (Kinshasa), không gặp tôi, và càng không phải chết.
Còn anh, cũng không vì quá áp lực mà nhầm tưởng rằng mình yêu Kiều Ninh, để rồi bỏ lỡ tôi.
Tất cả mọi chuyện, như một chuỗi mắc xích không có lời giải.
Sau đó, anh nộp đơn từ chức tại bệnh viện và biến mất.
Hai ông bà ngoài năm mươi tuổi vừa khóc vừa gào thét, như sắp đứt hơi.
“Nhiếp Lan à! Chuyện này sao lại trách chúng tôi được?
Làm cha mẹ, mong con cái nở mày nở mặt, có gì sai chứ?
Ngày trước chúng tôi bảo nó ngoan ngoãn ở lại bệnh viện, nó không nghe. Giờ thì sao, người cũng mất rồi! Không phải là tự nó chuốc lấy sao?
Kỷ Thanh làm sao có thể vì chuyện này mà giận dỗi với chúng tôi? Dù sao chúng tôi cũng là bố mẹ nó mà!
Chúng tôi xin cô, hãy để nó quay về. Chúng tôi đã mất một đứa con rồi, không thể mất thêm đứa nữa!”
Tôi không chịu nổi, đập mạnh điện thoại xuống bàn.
“Cút đi!!
Các người không xứng làm cha mẹ!!”
Tâm trạng tôi cực kỳ tệ.
Tôi lại quay trở về khu rừng đó.
Tựa vào một gốc cây lớn, nhìn những vệt sáng lốm đốm dưới đất, tôi ôm chặt đầu gối mình.
Mặc dù Kỷ Trừng chỉ một lần kể về gia đình,
Nhưng tôi có thể đoán được anh đã phải chịu đựng bao nhiêu uất ức.
Trong hồ sơ của tổ chức Bác sĩ Không Biên giới, người liên hệ khẩn cấp của anh lúc đầu là đồng đội.
Sau đó, đổi thành tôi.
Anh thậm chí không muốn gia đình biết nếu mình xảy ra chuyện.
Thế mà trong một gia đình như vậy, lại có thể nuôi dưỡng một người dịu dàng, nhân hậu và vị tha như anh.
Nghĩ đến đây, tôi không khỏi cảm thấy đau lòng.
38
Một cơn gió mạnh thổi qua.
Một vật cứng từ trên cây rơi thẳng xuống đầu tôi.
Tôi hét lên đau đớn, ôm trán xuýt xoa.
Nhặt lên xem.
Đó là một chiếc thẻ tên.
Ở khu vực chiến tranh, nhiều người mang theo thứ này để nhận diện nếu gặp sự cố.
Tôi nghĩ có lẽ đây là của một người lính bỏ lại.
Nhưng khi lật mặt trước, dòng chữ khắc trên đó khiến tôi chết lặng: “Kỷ Trừng”.
Tôi bật dậy, ngón tay run rẩy xoa đi xoa lại những chữ đó.
Làm sao có thể?
Thẻ tên của anh sao lại ở đây?
Nhìn quanh, tôi nhận ra cây mà tôi tựa vào khác hẳn những cây khác.
Nó cao lớn hơn nhiều, lá xanh đậm, có hình lượn sóng.
Phần đất quanh gốc có màu đen lạ thường.
Nhìn hồi lâu, tôi bỗng hiểu ra tất cả.
Tôi điên cuồng dùng tay đào đất.
Đất cát tràn đầy trong kẽ móng tay, máu tứa ra, nhưng tôi không ngừng lại.
Đào mãi, một đoạn xương trắng lộ ra.
Khoảnh khắc đó, tôi gào khóc nức nở.
Tôi tìm công cụ, đào lên toàn bộ bộ hài cốt bị rễ cây bao quanh.
Trong đất còn có mảnh áo blouse trắng ngày hôm đó anh mặc.
Là anh.
Tôi đã tìm được anh rồi.
Tôi cuối cùng cũng tìm thấy anh.
Có lẽ, sau khi chết, anh đã bị người ta vùi qua loa tại đây.
Thẻ tên của anh bị cây hấp thụ, bao bọc, rồi giờ đây rơi xuống.
Như thể anh thấy tôi đau buồn vì anh, nên nghịch ngợm búng nhẹ vào trán tôi mà nhắn nhủ:
**”Vui lên đi, đừng tức giận vì những kẻ không đáng.
Tất cả đã qua rồi.”**
Tôi ôm chặt lấy chiếc sọ của anh, giọng run rẩy:
“Được, về nhà thôi.
Chúng ta về nhà.”
39
Tôi xin nghỉ phép, mang tro cốt của Kỷ Trừng về nước và chôn cất bên cạnh mẹ tôi.
Nếu gia đình thực sự của anh không cần anh.
Thì tôi sẽ là gia đình của anh.
Ngày chôn cất, tôi gặp lại Kỷ Thanh.
Anh gầy đi nhiều, trông tiều tụy đến đáng sợ.
Tay anh cầm hai bó hoa cúc trắng, đặt trước mộ của mẹ tôi và Kỷ Trừng.
Anh nói rằng, anh đã hiểu rõ mọi chuyện.
Anh cho tôi xem một đoạn video xin lỗi trên mạng xã hội.
Là Kiều Ninh đăng, gửi lời xin lỗi đến tôi và những người khác mà cô ấy từng lừa dối.
Cô nói, cô chưa bao giờ đi du lịch vòng quanh thế giới, mà luôn ở Bắc Kinh.
Cô giả vờ như vậy để Kỷ Thanh không thể quên cô.
Và việc cô xúc phạm tôi là vì ghen tị khi tôi thực sự sắp kết hôn với anh.
Xem xong video, Kỷ Thanh gọi điện cho Kiều Ninh ngay trước mặt tôi.
Giọng cô ấy đầy oán trách:
“A Thanh, em đã làm theo lời anh, xin lỗi rồi! Em bị chửi đến thảm hại, giờ anh phải tha thứ cho em chứ!
Anh còn nói sẽ kết hôn với em, lời hứa đó có thật không?”
Kỷ Thanh lạnh lùng đáp:
“Không.
Tôi sẽ không kết hôn với em. Em lừa tôi, tôi cũng lừa em, chúng ta không ai nợ ai.
Việc tôi bảo em xin lỗi là vì em đã làm tổn thương Nhiếp Lan.
Từ giờ trở đi, chúng ta đừng bao giờ gặp lại nhau nữa.”
Anh cúp máy, chặn số Kiều Ninh, rồi quay sang nói lời xin lỗi tôi:
“Vụ máy ảnh, anh xin lỗi. Anh không biết đó là kỷ vật của mẹ em.”
Tôi lắc đầu.
“Anh không cần xin lỗi, vì tôi sẽ không tha thứ.”
Những tổn thương không thể cứu vãn đã xảy ra, lời xin lỗi muộn màng không có ý nghĩa gì.
Anh cúi đầu, vẻ mặt trĩu nặng.
“Anh cũng có lỗi với anh trai mình…
Anh ấy từng liên lạc với anh rất nhiều lần sau khi rời đi, nhưng lần nào anh cũng trách móc, chửi bới anh ấy…
Trong lòng anh biết, việc bố mẹ bắt anh chia tay Kiều Ninh không phải lỗi của anh ấy.
Nhưng anh không có đủ dũng khí để thoát ra, và anh ghen tị với anh ấy.”
Ánh mắt anh lặng lẽ dừng lại trên bia mộ của Kỷ Trừng.
“Nếu anh không hèn nhát như vậy, nếu anh đã đi cùng anh ấy từ đầu…
Có lẽ anh cũng sẽ được gặp em, ít nhất có cơ hội cạnh tranh công bằng với anh ấy?”
Tôi lạnh nhạt trả lời:
“Thế giới không có thuốc hối hận, giả thiết cũng chẳng có ý nghĩa.
Người tôi yêu là Kỷ Trừng, chỉ anh ấy mà thôi.”
Anh đứng dậy, thở dài.
“Chắc có lẽ sau này, anh cũng sẽ đi làm bác sĩ không biên giới…
Anh muốn đến gần em hơn một chút, bù đắp cho những gì anh đã bỏ lỡ.”
Tôi nhíu mày.
Ban đầu định nói tùy anh, đó là lựa chọn của anh.
Nhưng đột nhiên nhớ ra điều gì…
“Có người từng nói, hình như em trai anh không muốn làm bác sĩ.
Anh ấy mong anh nghĩ thật kỹ, mình muốn trở thành người như thế nào.
Đừng để mình phải hối hận thêm nữa.”
Kỷ Thanh sững người.
Như thể chìm vào những ký ức xưa, mắt anh đỏ hoe.
Tôi nhặt hai bó hoa cúc lên.
“Họ đều không thích hoa cúc trắng, lần sau đừng mang nữa.”
Tôi ném hoa lại cho anh, rồi quay người rời đi.
Chúng tôi như hai con thuyền nhỏ bị dòng chảy cuốn đi.
Sau một đoạn ngắn đi cùng chiều,
Lại chia rẽ, mỗi người một hướng.
40
Khi bước ra khỏi nghĩa trang, tôi nhìn thấy một người không ngờ tới – bố tôi.
Nhưng nghĩ kỹ lại, điều đó cũng hợp lý.
Kỷ Thanh có lẽ đã tìm gặp ông, mới biết chiếc máy ảnh là kỷ vật của mẹ tôi.
Vì thế, ông cũng biết tôi đã trở về.
Ông trông già đi nhiều.
Lưng còng, người hơi run rẩy trong gió.
Ông cố gắng lấy lòng, hỏi:
“Con ăn cơm chưa?”
Tôi thẳng thừng:
“Có chuyện gì thì nói đi.”
Ông bất an, vò vò đôi tay:
“Con có thể… về nhà một chuyến không?”
“‘Con lớn rồi, sau này đừng quay về nữa.’ Con đã luôn làm theo lời bố, sống tốt ở bên ngoài.
Giờ, sao lại muốn con quay về?”
“… Em con bị bệnh, ung thư.”
Tôi sững sờ.
“Nhà chẳng còn gì để bán nữa… Con là chị nó, có thể giúp nó được không?”
Vẻ mặt ông khổ sở:
“Bố biết con trách bố, nhưng ngày đó, không phải bố muốn đuổi con đi…
Con là con gái bố, sao bố nỡ làm vậy? Bố có nỗi khổ riêng!”
“Tôi biết.”
Ông ngẩn người nhìn tôi.
Ngày tôi nhận được giấy báo trúng tuyển đại học, tôi rất vui.
Cuối cùng, tôi có thể nối tiếp di nguyện của mẹ, học ngành báo chí, trở thành một nhà báo.
Tôi chạy vội về nhà, muốn báo tin mừng cho bố.
Nhưng lại nghe thấy ông cãi nhau với dì trong bếp.
“Vài năm nữa, Văn Văn cũng phải vào đại học. Nhà mình làm sao nuôi nổi cả hai?”
“Ông đã nuôi nó đến lúc trưởng thành rồi! Như thế còn chưa đủ sao?”
“Nhớ lấy, nhà này có nó thì không có tôi, có tôi thì không có nó!”
Tôi rón rén đóng cửa lại, lặng lẽ ra phố, ngồi một mình cả buổi chiều.
Cả mùa hè, tôi sống trong lo lắng, chờ đợi câu trả lời cuối cùng.
Đến ngày nhập học, tôi hiểu rõ mọi chuyện.
Và lòng tôi cũng hoàn toàn tan nát.
“Ông không muốn ngôi nhà mình vừa xây dựng lại sụp đổ, nên chọn hy sinh tôi.
Dù có tiếc nuối thế nào, cuối cùng ông vẫn đuổi tôi đi.”
Ông định nói gì đó, nhưng tôi ngắt lời:
“Tôi chưa bao giờ trách ông, tôi hiểu.”
“Nhưng, đứng ở góc độ của một người con gái, ông không phải một người bố tệ,
Nhưng cũng không phải là một người bố đủ tốt.”
Tôi lấy điện thoại, chuyển cho ông 300.000 tệ.
Mấy năm qua, ông đã thỉnh thoảng chuyển tiền vào tài khoản của tôi.
Tôi giữ lại, chờ ngày có cơ hội trả lại.
“Số tiền ông gửi tôi, tôi trả lại.
Số còn dư, coi như tôi trả ơn nuôi dưỡng.
Từ giờ, đừng đến tìm tôi nữa.”
41
Rời khỏi quán ăn, tôi bỗng cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng.
Những gánh nặng từng đè nén trong lòng, giờ như tan biến vào không trung.
Tôi rẽ chân, ghé vào tiệm hoa nơi Kỷ Trừng từng mua hoa thiên điểu tặng mẹ tôi.
Chủ tiệm nhận ra tôi.
Nhưng cửa tiệm hầu như trống rỗng.
Bà đang chuyển những chậu cây trống lên xe tải.
Tôi hỏi:
“Định chuyển đi đâu vậy?”
Bà cười:
“Không mở tiệm nữa! Muốn thử làm việc khác.”
Tôi khựng lại vài giây.
“Thế cũng tốt.”
Bà dùng những bông hoa còn lại trong tiệm – linh lan, dạ lan hương và nhành ô liu – gói tặng tôi một bó.
“Chúc chúng ta đều có thể ôm lấy một cuộc sống mới.”
Chúng tôi trao nhau một cái ôm, rồi tạm biệt trong sự bịn rịn.
Trên đường về nhà.
Hoàng hôn vàng rực, mây chiều như những dải lụa.
Tôi dừng chân, lặng lẽ ngắm nhìn.
Đột nhiên, điện thoại tôi đổ chuông, là giám đốc đài gọi.
Giọng ông có vẻ gấp gáp.
“Nhiếp Lan, kỳ nghỉ của cô có lẽ phải kết thúc sớm rồi.”
“Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Ông gửi cho tôi một bài báo:
“Xung đột giữa Lebanon và Israel leo thang, hàng loạt vụ nổ xảy ra tại nhiều địa điểm ở Lebanon.”
“Đài cho rằng cô là người có kinh nghiệm—”
Tôi ngắt lời:
“Tôi sẽ đi.”
Tay tôi chạm vào chiếc dây chuyền có khắc tên Kỷ Trừng.
Nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên đó.
Tôi nghĩ, chúng tôi không có câu trả lời nào khác.
Bởi vì nơi nào khói lửa chiến tranh bùng lên,
Nơi đó là nơi chúng tôi phải đến.
Chúng tôi luôn hy vọng rằng, dù ai đó đang ở giữa bóng tối sâu thẳm nhất,
Vẫn có thể tìm thấy ánh sáng của những vì sao.
Hậu ký
Nhật ký Congo (Kinshasa) của Nhiếp Lan khép lại trên mạng xã hội.
Hàng ngàn người đã khóc thương cho kết cục của Kỷ Trừng.
Họ tự nguyện đến nghĩa trang viếng anh.
Thậm chí, ngay cả cha mẹ Kỷ Trừng – những người từng không công nhận anh – cũng xuất hiện trên truyền thông, kể rằng anh là một người tốt bụng và vị tha thế nào.
Nhưng không lâu sau, cư dân mạng đào lại những hành vi trong quá khứ của họ.
Họ lập tức bị xã hội phẫn nộ lên án.
Những vòng hoa tang không ghi tên được gửi tới, chất đầy lối vào căn hộ của họ.
Cuối cùng, trong một đêm khuya, họ lặng lẽ dọn nhà, không biết đã đi đâu.
2
Kỷ Trừng được Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tị nạn truy tặng Giải thưởng Nansen về Người tị nạn, ghi nhận những đóng góp xuất sắc của anh trong việc bảo vệ và hỗ trợ người tị nạn.
3.
Kỷ Thanh không gia nhập tổ chức Bác sĩ Không Biên giới.
Anh mua lại tiệm hoa bên cạnh nghĩa trang.
Câu nói hôm đó của Nhiếp Lan khiến anh nhớ về những ngày thơ ấu, khi anh và anh trai nghịch bùn đất trong sân.
Khi đó, anh trai hỏi anh:
“Em sau này muốn làm gì?”
Anh đáp:
“Em muốn mở một tiệm hoa thật lớn.”
Nhưng ký ức đó sau này bị chôn vùi theo thời gian.
Mỗi năm, dù bận rộn đến đâu, Nhiếp Lan vẫn dành thời gian đến nghĩa trang thăm mẹ và Kỷ Trừng.
Đó là ngày duy nhất Kỷ Thanh có thể gặp lại cô.
Những lúc khác, anh chỉ có thể nhìn theo dấu chân cô ở các vùng chiến tranh như Trung Đông, Đông Âu…
Anh thành kính đếm từng ngày, mong ngóng mỗi lần gặp lại.
Dù Nhiếp Lan đã không còn để tâm đến anh.
Nhưng với anh, chỉ cần được nhìn thấy cô là đã đủ.
4.
Kiều Ninh rơi vào cảnh xã hội ruồng bỏ.
Ngay cả bạn bè cũ cũng cắt đứt liên lạc với cô.
Không còn đường lui, cô tìm đến Kỷ Thanh.
Nhưng lại phát hiện trong mắt anh từ lâu chỉ còn Nhiếp Lan.
Cô biến mình thành một chú hề hoàn toàn.
5.
Em gái cùng cha khác mẹ của Nhiếp Lan qua đời hai năm sau vì căn bệnh ung thư.
Người mẹ kế, người từng khiến Nhiếp Lan mất đi mái nhà, giờ cũng mất đi chính con gái của mình.
Bà ly hôn với Nhiếp Thế Văn.
Gia đình ông lần nữa tan vỡ.
Chỉ là lần này, bên cạnh ông không còn đứa con nào nữa.
Không lâu sau, ông cũng qua đời.
6.
Nhiếp Lan luôn chu cấp cho nhóm trẻ mà cô và Kỷ Trừng từng cứu sống.
Cuối cùng, Jean và Marie thật sự trở thành nhà báo và bác sĩ.
Nhiều năm sau, Nhiếp Lan nhận Giải thưởng Pulitzer cho Báo chí.
Trong bài phát biểu nhận giải, cô nói:
“Nếu bạn không thể ngăn chặn chiến tranh, thì hãy nói cho thế giới biết sự thật về chiến tranh, trở thành đôi mắt của thế giới.”