08

Những năm qua, ta theo phu nhân đi dâng hương lên chùa ở ngoại thành, khi ấy luôn gặp một vị tăng nhân.

Vị tăng nhân đó luôn mặc một chiếc áo cà sa xám đã sờn rách, nhưng dung mạo lại đẹp như tranh thủy mặc.

Người ta gọi ngài là Trần Nhất đại sư.

Nghe nói, Trần Nhất đại sư từng là thiếu tướng quân xuất chúng, nổi bật nhất kinh thành, khi đó ông mặc áo trắng, giáp bạc, ý chí dâng trào, khí phách cao độ.

Ngài và phu nhân đã lớn lên bên nhau, thanh bảo kiếm là tín vật đính ước của ngài tặng cho phu nhân.

“A Vân, đợi ta về sẽ cưới nàng.”

Tuy nhiên, trong lần xuất chinh đó, mười vạn đại quân đã chôn thân ở Tây Vực và vị thiếu tướng quân không bao giờ trở lại.

Phu nhân đã nghĩ đến việc cùng chết theo, nhưng cuối cùng bà không thể làm được.

Người đã lấy chồng nhưng từ đó người chỉ còn là một khúc gỗ không có cảm xúc.

Mười năm sau, thiếu tướng quân đã trở về.

Ngài đã đi từ địa ngục Tu La ra, dốc hết sức dùng những hơi thở cuối cùng chỉ vì mong muốn nhìn thấy người yêu một lần nữa.

Nhưng cô gái mà ngài ấy yêu đã đi lấy chồng.

Thiếu tướng quân không hề quấy rầy. Ngài đã cạo đầu xuất gia tại chùa Phật giáo ở ngoại thành, pháp hiệu Trần Nhất.

Tất cả chỉ là tin đồn.

Ta đã tận mắt chứng kiến phu nhân và Trần Nhất đại sư gặp nhau ở chùa.

Hai người cúi đầu chào nhau từ xa, như ánh trăng chiếu núi, không dây dưa, không nuối tiếc, như hai người qua đường nhạt nhẽo, nếu ta không nghe qua những lời đồn đại đó, không ai nghĩ rằng họ từng quen nhau.

Chỉ có một lần, khi phu nhân bệnh nặng, sốt cao không dứt, thuốc sắc liên tục cũng vô hiệu.

Cha ta ở bên Triệu di nương, tiểu nha hoàn đã đi mời ông vài lần, đều bị người của Triệu di nương chặn lại.

Bà Ngô đổ mồ hôi hột, nắm tay phu nhân nói: “Gọi ngài ấy đến được không? Gọi ngài ấy đến…”

Ta đứng bên cạnh tay cầm bát thuốc, gần như ngay lập tức hiểu ra nên gọi cho ai.

Đưa bát thuốc cho bà Ngô, ta phi con ngựa nhanh nhất lao vào màn đêm, chạy thẳng tới ngôi chùa nơi ngoại thành.

Trần Nhất đại sư đã đến.

Ngài không vào phòng phu nhân, chỉ ngồi trong Phật đường bên cạnh, gõ mộc ngư cả đêm.

Phu nhân nghe tiếng mộc ngư mà dần dần khá hơn.

Qua một bức tường, người biết ngài đang ở bên cạnh, không cần gặp mặt, ánh trăng chung đã soi cả hai người.

Lúc này, dưới ánh trăng thanh khiết, ta nắm tay phu nhân.

“Phu nhân, có những chuyện người nghĩ rằng đã muộn, nhưng kỳ thực vẫn chưa muộn.”

Người nhìn về phía xa, như đang suy tư.

09

Triệu di nương và Thẩm Hoàn Dung, sau một tháng bị giam lỏng đã được thả ra.

Cha ta thiên vị một cách quá đáng, nói rằng đánh mỗi người ba mươi gậy, nhưng thực tế khi thi hành thì ở mỗi gậy đều bị giảm lực.

Triệu di nương và Thẩm Hoàn Dung khi đó kêu la rất thảm thiết nhưng chưa đến nửa tháng thân thể đã bình phục như cũ.

Khi Thẩm Hoàn Dung gặp ta ở nơi riêng tư, cười tươi nói:

“Ngươi nghĩ rằng có lão bà đó chống lưng thì làm được gì? Xem đấy, cuối cùng thì trong nhà vẫn là đàn ông quyết định, trong phủ này, không ai lớn hơn cha cả.”

Tin này truyền đến tai phu nhân khi người đang cắt tỉa cành hoa bên cửa sổ. Nghe bà Ngô báo cáo xong, người chỉ nhướng mày, không nói gì, chỉ đưa tay cắt đứt một nhánh mẫu đơn nở rực rỡ nhất.

Người nhìn cành hoa đã cắt, quay sang nói với bà Ngô: “Thôi, vứt đi, ta không muốn cả bình hoa này nữa.”

Bà Ngô đáp lời, dẫn theo các tiểu nha hoàn mang hoa ra ngoài, khóe mắt bà thoáng lên nụ cười.

Chúng ta đều biết, phu nhân trong suốt nhiều năm như vậy không trừ khử Triệu di nương, vì cha ta không xứng để người ra tay.

Giờ đây, ngay cả cha ta, người cũng không muốn nữa.

11

Những ngày sau đó, mọi chuyện dường như trôi qua một cách bình lặng.

Phu nhân bắt đầu dạy ta những thứ sâu sắc hơn, người dẫn ta đi tham quan các điền trang, cửa hàng, cho ta tận mắt thấy cái cách người quản lý khối tài sản khổng lồ.

Và trong quá trình học hỏi, ta ngạc nhiên phát hiện, những điền trang và cửa hàng này đều thuộc quyền sở hữu của phu nhân, không liên quan gì đến phủ Thẩm.

Điều này cực kỳ gây sốc, vì ở triều đại này, tài sản của phụ nữ trước khi kết hôn thuộc về cha anh, sau khi kết hôn, dù là chính thất, mọi thu nhập cũng phải nhập vào công quỹ, chỉ có của hồi môn là tài sản riêng của phụ nữ.

Vậy mà phu nhân trong mười mấy năm qua đã mở rộng của hồi môn lên gấp nhiều lần, quản lý nó thành một cơ nghiệp lớn như vậy…

Mặt ta tái mét, phu nhân liếc nhìn ta, cười khẩy:

“Nhìn ngươi kìa, ngỡ ngàng thật. Ngươi nghĩ rằng mười mấy năm qua ngoài niệm Phật, ta không làm gì khác sao?”

“Là phụ nữ, tình yêu và tiền bạc phải chiếm ít nhất một thứ. Ta đã không còn tình yêu nữa, nếu không kiếm thật nhiều tiền, chẳng phải thật sự sẽ trở thành một kẻ vô dụng sao?”

Ta vội vàng gật đầu đồng ý, và ngạc nhiên nhận ra…

Phu nhân dường như đã trở nên hoạt bát hơn.

Khi ta theo phu nhân học cách làm giàu, Thẩm Hoàn Dung cũng không rảnh rỗi.

Đệ tử của Lê Viên thường xuyên ra vào viện của Triệu di nương, tiếng nhạc không ngừng vang lên.

Ta biết, Thẩm Hoàn Dung đang học điệu múa Lục Yêu.

Nàng trở nên đẹp hơn, với làn da trắng như tuyết, dung mạo như hoa, nhiều năm khiêu vũ khiến thân hình nàng nhẹ nhàng mềm mại.

Khi cùng tham gia các buổi tụ hội của công tử tiểu thư kinh thành, các công tử đều khen ngợi nàng là đệ nhất mỹ nhân kinh thành.

Họ từng bị kỹ thuật kiếm của ta làm say đắm, nhưng nhanh chóng nhận ra ta có tính cách cứng rắn, không bao giờ muốn múa kiếm cho họ xem.

Thẩm Hoàn Dung thì hoàn toàn khác, nàng có nhiều tài nghệ, biết hát, biết đàn tỳ bà, biết múa nhiều điệu khác nhau.

Các công tử tán thán: “Cô nương Hoàn Dung thật là tài sắc vẹn toàn, không biết là ai sẽ may mắn để có được nàng.”

Có người còn so sánh Thẩm Hoàn Dung với ta: “Cùng là tiểu thư của phủ Thẩm, nhị tiểu thư tính tình vô vị, lại không có tài nghệ, dù nàng có theo đích mẫu lớn lên cũng uổng công, giờ cũng không bằng đại tiểu thư.”