Phải… ta không vội nữa.
“Ngày mai… ngày mai sẽ đi gặp người.”
Triệu Tử An trong lòng nảy sinh nghi hoặc.
Từ khi gặp nhau, nàng luôn nói muốn đón mẫu thân. Thế mà khi thực sự tới biên tái, lại chẳng vội vã.
Đêm ấy, ta ngồi lặng trong phòng, một lần lại một lần hồi tưởng về mẫu thân đã nhạt nhòa trong ký ức.
Khi sao mai sắp lặn, ta đã quyết định.
Nhưng, sơn tặc kéo đến bất ngờ.
Tiếng chém giết trên phố dài vang dội bên tai, dịch trạm náo loạn, tiếng kêu khóc dậy khắp nơi.
Sơn tặc thấy cửa dịch trạm đóng chặt, định xông vào, Triệu Tử An và Biên Sách cầm kiếm chặn trước cửa.
Hễ vào một kẻ, giết một kẻ.
Trong dịch trạm không thiếu trai tráng, thấy thế liền lấy hết can đảm, cùng tiến lên trợ sức.
Khi dịch trạm khôi phục yên tĩnh, Triệu Tử An cầm kiếm ra ngoài, bảo Biên Sách canh bên cạnh ta và Xuân Hạnh.
Có lẽ nhận ra chúng ta bất an, Biên Sách khẽ trấn an:
“Ở biên cảnh, sơn tặc là chuyện thường gặp.”
Người quản dịch trạm nghe vậy liền ngừng tay:
“Công tử nói phải… Ừm. Mười một năm trước cũng từng có một trận như vậy. Về sau quân doanh mới tới dẹp yên.
Từ đó tới nay, thỉnh thoảng vẫn có sơn tặc vào trấn, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh gặp ai giết nấy như hôm nay.”
“Mười một năm trước ư?”
“Phải. Đêm đông năm ấy cũng giống hệt hôm nay, mà còn thảm hơn nhiều. Xác chết la liệt, nếu không có ‘nương nương’, e rằng trấn này sớm đã thành đống xương khô.”
“‘Nương nương’? Là ai?”
“Vị nương nương này vốn là một nữ tử bình thường, không rõ danh tính, nên chúng tôi mới gọi như thế. Trong mắt chúng tôi, nàng chính là tiên nữ trên trời.”
“Năm ấy, đã xảy ra chuyện gì?”
(Có phải… liên quan đến cái chết của mẫu thân ta?)
Chưởng quầy thở dài:
“Sơn tặc đêm đông xuống núi, đốt phá, giết chóc, cướp bóc.
Gặp người là giết, ngay cả trẻ nhỏ cũng không tha.
Xác nằm khắp nơi. Nghe nói nương nương vốn là thương nhân từ xa đến, bảo là để tìm thứ tơ chỉ chỉ biên tái mới có.
Khi sơn tặc tràn tới, nhà nông nàng tá túc gần trường học nhất.
Nàng dẫn bách tính và hài tử quanh vùng cố thủ trong trường, bắn pháo hiệu cầu viện, dẫn quân doanh tới cứu, cứu được mọi người.”
“Nhưng… lại chẳng cứu được nàng. Khi ấy, ta cũng ở trong đám người.
Đứa nhỏ nhà họ Lý vốn thân thể yếu ớt, lúc trốn chậm một bước.
Đao của sơn tặc suýt xuyên qua thân nó.
Quân lính chậm một nhịp, vừa bắn chết tặc nhân, nàng đã thay nó đỡ một đao, bị thương vào—”
“Hại là ở chỗ, thấy quân giữ thành tới, nàng mới khép mắt. Nàng đã cứu chúng ta hơn trăm mạng người.
Về sau, chúng ta lập một ngôi miếu ‘Nương nương’, hương khói phụng thờ, mong nàng sớm được luân hồi, sớm thành tiên.”
Xuân Hạnh siết chặt tay ta đến đau buốt, khiến lệ ta không kìm được mà rơi.
Biên Sách ở bên khẽ thở dài:
“Hai, một người mất mà cứu được trăm nhân mạng, cũng coi như chết có chỗ.”
11
Mặt trời rốt cuộc cũng nhô khỏi đầu cành, bọn cướp rút khỏi trấn.
Dân trên phố bắt đầu dọn dẹp đống hoang tàn.
Triệu Tử An được xem là anh hùng cứu trấn, đi đến đâu cũng được nhét cho đủ thứ.
Ta thay một thân bạch y, ôm trong tay một chiếc tráp, dắt Xuân Hạnh từng bước tiến về miếu Nương Nương.
Dọc đường gặp Triệu Tử An, chàng hỏi han:
“Ngươi hôm nay chẳng phải đi đón mẫu thân sao? Nên đi xem người còn bình an chứ?”
“Vâng, là đi đón mẫu thân.”
Trước cửa miếu Nương Nương có rất nhiều người.
Một thanh niên đang quét sạch đống tàn dư trên đất.
Bách tính dâng hương quỳ trước cửa, miệng cầu khấn:
“Đa tạ Nương nương phù hộ cho chúng con lại thoát một kiếp.”
Ta đứng bên, nhìn dân chúng thành tâm cầu nguyện, chợt muốn cười.
Phải, đa tạ nàng lại che chở cho các ngươi thêm một lần.
Tượng đá khắc hình nữ tử dần chồng khít với ký ức của ta — thì ra người thật sự chết ở biên tái.
Ta nắm tay người giữ miếu, chỉ vào tượng mà hỏi:
“Hài cốt của nàng ở đâu?”
“À?”
“Hài cốt nàng có được thu liệm không? Chôn ở nơi nào?”
“Chôn ở hậu viện.”
Ta kéo Xuân Hạnh bước nhanh về phía hậu viện.
“Hậu viện không được vào!”
Thanh niên định cản, nhưng ta bước quá nhanh, hắn đành lớn tiếng gọi, khiến nhiều người nghe thấy mà chạy theo muốn ngăn.
Trong hậu viện, một nấm mộ cô đơn chỉ dựng tấm bài gỗ, khắc mấy chữ: “Mộ Nương Nương”.
Bên cạnh mộ có một cây lê, lá đã úa vàng.
Thấy cảnh ấy, mắt ta nóng lên, lần đầu tiên thực sự cảm nhận mất mẫu thân.
Ta ngồi xuống trước tấm bài, tay khẽ vuốt ba chữ “Mộ Nương Nương”, nhìn nấm mộ cô độc ấy, như muốn đem mười mấy năm ấm ức nói hết cho nàng nghe:
“Phụ thân nghe tin mẫu thân chết ở biên tái, liền tìm đến, nhưng chẳng mang hài cốt về.
Ta cứ cho rằng người gạt ta, nên năm ấy, khi vừa tròn năm tuổi, ta ngồi trước cổng phủ chờ mẫu thân.
Chờ mãi, chờ đến khi gió tuyết mịt mù, vẫn chẳng thấy mẫu thân trở về.”
Quanh đó, dân chúng lập tức im bặt, ngay cả Triệu Tử An và Biên Sách cũng nhìn ta với ánh mắt kinh ngạc.
“Từ đó ta thường gặp ác mộng, trong mộng hết lần này đến lần khác thấy mẫu thân bỏ rơi ta, không cần ta, xa ta mãi.
Dù ta gọi thế nào, mẫu thân cũng chẳng ngoái đầu nhìn.
Tỉnh dậy, thường là dì Lâm — người lớn lên cùng mẫu thân — ôm ta dỗ dành.
Nhưng dì cũng vì thương nhớ mẫu thân mà bệnh nặng, qua đời năm sau.
Mẫu thân ở dưới kia, có gặp dì không? Dì có được bình an không?”
Gió nhẹ thổi qua, lay động vạt váy ta.