7
Mùa xuân lại đến, phu nhân nhà họ Cố nở nụ cười rạng rỡ, chuẩn bị theo phu quân lên đường nhậm chức.
Hắn đội mũ ô sa, mặc áo bào đỏ thắm, xung quanh đầy những người hộ tống.
Một vị quan trẻ tuấn tú, cúi đầu từ biệt cố nhân đất Cẩm Châu, rồi dẫn ta bước lên con thuyền xuôi về Dương Châu, nơi ánh trăng hai phần sáng tỏ.
Quay đầu lại, hắn liếc nhìn ta, hỏi:
“Phu quân nàng đẹp đến vậy sao, khiến nàng không nỡ rời mắt?”
Ta nhổ một cái, nói: “Chàng thì có gì mà đẹp!”
Hắn cười nhạt:
“Phu nhân à, nay nàng đã là người của quan phủ, sao lại thiếu đi sự điềm tĩnh như vậy?”
Ta nhéo tay hắn, buông một tiếng “phì”, mới làm quan hai ngày đã dám chê thê tử không điềm tĩnh.
Mặt trời chiếu xuống dòng sông phẳng lặng, thuyền trôi như đang đi trên trời.
Đây là lần đầu tiên ta đi xa, lòng vừa hồi hộp vừa háo hức.
Ta ngồi trong khoang thuyền, vừa làm mấy việc thêu thùa, vừa thỉnh thoảng vén rèm lên nhìn.
Ta ngắm dòng sông lấp lánh như vảy cá, ngắm hai bờ núi xanh, ngắm những con thuyền qua lại như thoi đưa, và chẳng thể nhìn đủ cảnh mặt trời lặn giữa ngàn cánh buồm.
Ta muốn ra đầu thuyền ngắm cảnh, nhưng lại sợ đám nha hoàn bà tử nhìn thấy, mất mặt thân phận phu nhân.
Ta buông rèm, nhìn sang phu quân, thấy hắn đang cầm quyển sách, cúi đầu chăm chú, dáng vẻ thanh nhã bình thản.
Đậu Hoàng thì nằm im dưới chân hắn, mắt lim dim, đuôi khẽ vẫy, chẳng chút xao động.
Đến cả Đậu Hoàng cũng trầm tĩnh hơn ta.
Ta cúi đầu thêu thùa, nhưng lòng lại đi lang thang nơi khác.
Bỗng nghe phu quân hỏi: “Sao đột nhiên không nhìn nữa?”
Ta nhẹ giọng đáp:
“Nhìn mãi cũng chẳng có gì hay, đâu phải ta chưa thấy thế giới ngoài kia.”
Phu quân cười: “Thế giới ngoài kia gì chứ.
Ngày xưa Thái Bạch đi thuyền đến Giang Lăng, còn từng làm thơ rằng ‘thuyền nhẹ lướt qua ngàn dãy núi’.
Có lẽ dọc đường cũng không ngừng ngắm cảnh.”
Thái Bạch ta biết, ông là người tài hoa, uống rượu làm thơ, là thi tiên.
Ông đi thuyền mà cũng thích ngắm cảnh ư?
Ta ngẩn người hỏi: “Thật vậy sao?”
Hắn đứng dậy kéo tay ta: “Phu quân ta có bao giờ lừa nàng chưa, đi thôi, ra đầu thuyền mà xem.”
Ta theo phu quân ra đầu thuyền, mây trời lồng lộng, gió sông phả vào mặt.
Ta nói: “Đẹp thật, ta muốn thêu lại, nhưng e rằng tay ta quá chậm.”
Hắn bảo: “Không sao, ta sẽ nhớ giúp nàng.
Khi nào nàng muốn thêu, ta sẽ vẽ lại cho.”
Hắn kéo ta vào lòng: “Sau này khi rảnh rỗi, ta sẽ dẫn nàng đi khắp nơi, ngắm hết những cảnh đẹp trên đời, đi khắp sông núi.
Nàng muốn thêu gì, ta sẽ ghi lại giúp.”
Ta cúi đầu, lòng dâng chút lo lắng.
Ta nói: “Ta sợ làm mất mặt chàng.”
Hắn nhìn xuống ta, rồi đưa tay cho ta xem.
Hắn nói: “Nàng xem tay phu quân này.”
Ta nhìn tay hắn, thon dài, trắng trẻo, đẹp đẽ và đầy sức mạnh.
Hắn nói: “Tay này viết được những bài văn tuyệt đẹp, vẽ được núi sông ngàn dặm, nhưng cũng có điều không làm được.”
Ta tò mò hỏi: “Là gì vậy?”
Hắn cười đáp: “Không cầm được kim thêu.”
Ta bật cười.
Phu quân ta nói:
“Mỗi người có sở trường riêng, chẳng ai hoàn hảo cả.
Ta là Thám Hoa, còn nàng là thợ thêu, ai cũng có bản lĩnh riêng.”
Thuyền đi hơn một tháng, vẫn chưa tới Dương Châu.
Ta dần cảm thấy bực dọc, thêu thùa không yên, ăn uống thì buồn nôn, ngủ cũng không ngon giấc.
Đêm xuống, sao trời dày đặc, thuyền khẽ lắc lư khiến lòng ta lo lắng, bực bội.
Ta đẩy vai hắn, nói: “Ta cảm thấy khó chịu.”
Hắn lo lắng hỏi: “Có phải nàng say thuyền không?”
Ta chưa kịp đáp, đã lao ra mép giường nôn thốc nôn tháo.
Hắn vội vàng khoác áo, lệnh cho thuyền lập tức ghé bờ, nửa đêm tìm một lão lang trung từ thôn làng gần đó lên thuyền.
Lang trung lau mồ hôi, bắt mạch cho ta.
Hắn khoanh tay sau lưng, mặt đầy căng thẳng, đứng bên cạnh chăm chú nhìn.
Hắn hỏi: “Phu nhân ta vì sao đột nhiên say thuyền?”
Lang trung đáp: “Không phải say thuyền.”
Hắn lại hỏi: “Phu nhân ta ăn uống không hợp chăng?”
Lang trung đáp: “Không phải vì ăn uống.”
Hắn nhíu mày: “Vậy phu nhân ta mắc bệnh gì?”
Lang trung đáp: “Không phải bệnh.”
Hắn hít sâu một hơi: “Ngươi nói thật cho ta biết.”
Lang trung lắp bắp, ngập ngừng nói:
“Tiểu nhân chỉ là một thầy thuốc thú y, bắt mạch không kỹ, nhưng mạch này… giống như có hỷ sự.”
Hắn sững sờ hỏi: “Gì cơ?”
Lang trung đáp: “Giống như có thai.”
Hắn vẫn chưa hiểu ra, chớp mắt hỏi:
“Sao cơ?”
Lang trung có chút tức giận, nói:
“Phu nhân trong bụng có cốt nhục rồi!”
Phu quân ta đứng ngây ngốc tại chỗ.
Nhìn hắn như thế, ta thở dài trong lòng, cảm tạ lang trung, rồi sai người tiễn hắn xuống thuyền.
Ta gọi phu quân mình: “Phu quân, qua đây ngồi nào.”
Hắn liền bước tới ngồi xuống.
Ta nắm tay hắn đặt lên bụng mình, nhẹ giọng nói:
“Phu quân, chàng không nghe nhầm đâu, chàng sắp làm phụ thân rồi.”
Hắn ngập ngừng hỏi: “Ta không nghe nhầm thật sao, ta làm phụ thân rồi à?”
Ta gật đầu.
Hắn nhìn ta, rồi nhìn tay mình đặt trên bụng ta.
Hồi lâu vẫn không thấy phản ứng.
Ta gọi hắn thêm mấy lần, hắn mới đột nhiên mắt đỏ hoe, che mặt khóc rống lên.
Ta mềm lòng, hỏi hắn:
“Khóc cái gì mà khóc?”
Hắn đáp: “Cố Lân cô độc bao nhiêu năm, chưa từng nghĩ tới ngày này.”
Ta cũng đỏ hoe mắt.
Hắn tự hào nhìn ta, nói:
“Đào Nhi, ta có con rồi.”
Ta chẳng biết nói gì.
Đúng, chàng có con rồi, cứ làm như ai cũng không có con vậy.
Con giống phụ thân, thật làm người khác mệt mỏi.
Lênh đênh trên thuyền ta nôn đến trời đất đảo lộn, xuống thuyền lại nôn đến đất trời đảo lộn.
Ta đến Dương Châu này, chẳng biết gì về “Hoài Tả danh đô”, hay “Trúc Tây giai xứ” mà phu quân nói, cũng chưa thấy “Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ”, chưa đi qua “Xuân phong thập lý Dương Châu lộ”.
Cả ngày ta chỉ ở trong phủ nôn.
Phu quân thương ta, cách cái bụng mà mắng con:
“Nghịch tử không yên phận, hành hạ mẫu thân ngươi, đợi ra ngoài xem phụ thân ngươi dạy dỗ thế nào!”
Hắn mắng càng hung dữ, con lại càng hành hạ ta dữ dội hơn.
Con quấy ta suốt một tháng trời mới chịu yên.
Ta vịn tay Tiểu Thúy, muốn ra ngoài dạo một vòng xem Dương Châu ra sao.
Tiểu Thúy lo lắng nói:
“Phu nhân, đại nhân dặn không cho người ra ngoài.”
Ta nói: “Hắn là đại nhân, ta là phu nhân, ta là người đâm thủng trời của hắn, ta nói mới là phải.”
Tiểu Thúy còn ngăn: “Phu nhân, đợi đại nhân về rồi hãy ra.”
Ta chống hông nói:
“Ngươi đi không? Không đi thì ở nhà.”
Tiểu Thúy đành phải theo ta ra ngoài, miệng không ngừng nhắc nhở, lúc thì bảo ta đi chậm một chút, lúc lại bảo ta cẩn thận.
Ta nhìn phố phường nhộn nhịp, nghe giọng nói mềm mỏng của người dân nơi đây, cảm thấy mới mẻ thú vị, tinh thần phấn chấn.
Bị nàng nhắc đến bực mình, ta bèn tìm một quán trà ngồi nghỉ, bảo nàng sang tiệm đối diện mua chút bánh trà.
Tiểu Thúy dặn dò vài câu rồi mới quay đi mua bánh, ta thở phào, ngồi đó ngắm nghía xung quanh.
Thấy một tiệm thêu lớn, cửa hàng rộng rãi, bên trong bày la liệt những sản phẩm thêu lộng lẫy.
Ta chưa kịp suy nghĩ, chân đã bước tới.
Đến cửa tiệm, thấy các thợ thêu ngồi thành hàng, đầu cúi thấp khâu vá, một người nữ nhân đi qua đi lại chỉ bảo.
Ta nhìn thấy những họa tiết tinh tế, từng mũi kim tài tình, bất giác đứng ngẩn ra.
Họ còn thêu một bức bình phong lớn, một bên là thần nữ bay lên trời, một bên là bách điểu triều phượng.
Ta đứng đó không nhấc chân nổi.
Người nữ nhân ngẩng đầu nhìn ta, hỏi:
“Phu nhân muốn học thêu hay muốn xem sản phẩm?”
Ta hỏi: “Bức bình phong kia dùng kỹ thuật thêu gì?”
Bà ta cười đáp: “Đó là thêu hai mặt, kỹ thuật đặc biệt của tiệm chúng tôi.
Phu nhân đang mang thai, đừng đứng ngoài cửa, mời vào xem kỹ.”
Ta muốn bước vào xem, nhưng thấy Tiểu Thúy đã mua bánh trà, đang lo lắng nhìn quanh.
Ta đành thu chân lại, nói với bà:
“Hôm nay không tiện, lần sau ta sẽ đến xem.”
Ta bảo Tiểu Thúy đi thăm dò, biết được chủ tiệm thêu đó là một thợ thêu nổi tiếng ở ba vùng, được gọi là Ngô Đại Gia, gốc người Tô Châu, theo phu quân tới Dương Châu.
Bà ấy có tài thêu Tô Châu tuyệt hảo, sản phẩm thêu từng được dâng lên hoàng hậu, còn từng thêu Quan Âm cho Thái Hậu.
Nay tuổi đã cao, mắt mờ, nên mở tiệm thêu và nhận đệ tử, bán sản phẩm.
Nghe vậy, lòng ta liền động.
Ta thuyết phục Tiểu Thúy, giấu phu quân, lén lút ra khỏi nhà.
Ngô Đại Gia hỏi ta từ đâu đến, vì sao tới Dương Châu.
Ta nói ta là người Thục Châu, theo phu quân tới Dương Châu.
Bà hỏi phi quân ta làm nghề gì, ta nói hắn dậy sớm thức khuya, ta cũng chẳng biết hắn làm gì mỗi ngày.
Bà liền thở dài nói:
“Cũng là người khổ cực.”
Ngô Đại Gia hỏi ta có biết thêu không, ta đáp ta học từ mẫu thân, còn từng sống nhờ nghề thêu.
Nghe vậy, bà rất vui, bảo ta thêu một mẫu cho bà xem.
Ta thêu một bông phù dung, rồi thêu một con cá chép, bà nhìn rồi không ngớt lời khen ngợi, bảo rằng ta khéo tay như thể đã xin được tài khéo từ Ngọc Nữ, sinh ra là có số làm nghề thêu.
Ngô Đại Gia giữ ta lại trong tiệm thêu, tận tình chỉ dạy kỹ thuật thêu thùa.
Bà khen ta: “Với sự tinh thông của con, chẳng mấy chốc sẽ vượt qua ta.”
Một ngày nọ, khi ta đang chăm chú thêu, Ngô Đại Gia bảo:
“Quan phủ sắp đến đích thân chọn sản phẩm dâng tiến, mọi người phải chuẩn bị tinh thần.”
Nghe thế, ta bỗng thấy lo lắng, vội đứng dậy nói: “Bụng ta đau.”
Ngô Đại Gia giật mình, lập tức bảo người dìu ta đi khám.
Ta vội vàng nói không cần, rồi nhanh chóng định rời khỏi tiệm.
Nhưng vừa bước ra cửa, đã thấy một chiếc kiệu dừng ngay trước cổng.
Màn kiệu vén lên, người bước ra là một vị quan uy nghiêm và tuấn tú, chính là phu quân của ta.
Ta lập tức quay lưng, nói:
“Không đau nữa rồi.”
Ta nấp sau bức bình phong, thấy Ngô Đại Gia đón tiếp phu quân vào tiệm.
Họ đi về bên trái, ta liền né sang phải.
Họ tiến về trước, ta liền lùi về sau.
Phu quân ta lúc nào cũng tỏ vẻ lạnh lùng, chẳng bao giờ cười, ánh mắt không liếc ngang dọc, chỉ một vẻ nghiêm trang.
Các thợ thêu mặt đỏ bừng, lén nhìn hắn, vừa nhìn vừa xì xào bàn tán.
Có người nói: “Phủ đài đại nhân trẻ tuổi thế này cơ à?”
Người khác lại nói: “Trẻ tuổi đã đành, còn đẹp trai thế, như công tử bước ra từ trong tranh.”
Có người cười bảo: “Dù có là công tử trong tranh thì cũng là công tử của người khác thôi.
Ta nghe nói hắn thương yêu phu nhân lắm.
Phu nhân mang thai, thèm ăn cam, giữa mùa hè mà hắn lùng sục khắp Dương Châu để mua cho bằng được.”
Mọi người thở dài: “Không biết nữ tử nào có số tốt đến vậy.”
Ta mím môi cười thầm, chính là ta, người có số tốt như vậy.
Ta đang cúi đầu cười, bỗng nhiên không khí xung quanh trở nên im lặng.
Trên đầu ta vang lên một giọng nói lạnh lẽo:
“Nàng còn muốn cúi thấp đầu nữa không?”
Đó là giọng nói đầy tức giận.
Ta mím môi, ngẩng đầu lên.
Thấy phu quân đứng đó, tay chắp sau lưng, mặt không đổi sắc, lặng lẽ nhìn ta.
Ta bày ra vẻ mặt đáng thương.
Hắn hỏi: “Nàng còn bao lâu mới thêu xong?”
Ta đáng thương đáp: “Còn một cánh hoa nữa thôi.”
Hắn ừ một tiếng rồi bước đến ngồi xuống ghế.
Ngô Đại Gia nhìn ta, rồi lại nhìn hắn, cười nói:
“Đại nhân có gì không hài lòng sao?
Hay ngài muốn xem thêm?”
Hắn cầm tách trà, nhẹ nhàng thổi một hơi, đáp:
“Không có gì không hài lòng, không cần xem thêm.
Ta là đợi phu nhân của ta.”
Ta theo phu quân về nhà.
Hắn mặt đen như đáy nồi, ngồi trên ghế, tức giận với ta.
Ta ôm bụng, đứng trước mặt hắn.
Hắn bảo ta ngồi xuống, ta liền ngồi xuống.
Ngón tay hắn gõ cạch cạch lên bàn, nói:
“Lý Bích Đào, bụng nàng không nhỏ, nhưng gan cũng không nhỏ chút nào.”
Ta cúi xuống nhìn bụng, quả thật không nhỏ.
Hắn nói: “Nàng dám giấu ta lén lút ra ngoài, nàng không sợ người khác chê cười, ta còn sợ mất mặt đấy.”
Hắn chê ta làm hắn mất mặt.
Hắn nói: “Nếu nàng gặp chuyện gì bất trắc, nàng muốn ta phải làm sao?
Xới tung Dương Châu lên à?”
Mẫu thân mang bầu ta, vẫn đi lại khắp nơi, có sao đâu.
Hắn nói: “Sao nàng lại im lặng thế? Ta nói nàng một câu, nàng trong lòng phản bác ta mười câu.”
Chỉ có một câu thôi, không đến mười câu.
Hắn thở dài nói: “Lại đây.”
Ta đứng dậy, bước đến chỗ hắn.
Hắn kéo ta ngồi lên đùi, tay xoa bụng ta, bất đắc dĩ nói:
“Đào Nhi, phu quân bận rộn cả ngày, nàng hãy để ta an tâm.
Đợi khi nào ta rảnh, sẽ đưa nàng đi khắp nơi, luôn ở bên cạnh nàng, như vậy ta mới yên lòng.”