10
Trình Túy Chi đúng là mệnh lớn.
Nghe nói ba năm sau khi hòa ly, vì muốn trèo cao tiến chức, hắn đã bao phen bị người ám sát, trúng độc, thân chịu lắm khổ mà vẫn không chết.
Lần này bị đánh bốn mươi trượng, vậy mà hôm sau đã tỉnh lại.
Hắn hé mắt yếu ớt, vừa thấy là ta, mắt lập tức mở to kinh ngạc: “Nàng tới sao? Ai bảo nàng tới?”
Hắn cuống quýt, vừa định gượng dậy vừa gọi gia nhân: “Thương Lục! Ngươi làm ăn kiểu gì thế hả? Sao lại để ta thế này mà chẳng lo chải chuốt gì cả?!”
Ta nhịn cười, vờ lạnh nhạt đáp: “Trình đại nhân giờ đây đúng là chẳng bằng khi xưa, hôm qua lại càng thê thảm.”
Hắn mím chặt môi, khẽ nghiêng đầu vào trong, không dám nhìn ta: “Nàng… nàng ra ngoài trước đi, để ta chỉnh trang một chút. Ta biết là họ mời nàng đến, nàng thương hại ta, không nỡ chối từ nên mới tới. Nàng không cần phải miễn cưỡng chính mình…”
“Vậy ta đi nhé?”
“Chớ!” Hắn quay đầu lại thật nhanh: “Đừng đi… Tuy ta không muốn nàng rời đi, nhưng càng không muốn nàng vì thương xót ta mà bị người chỉ trích, lại vì đáng thương mà đến.”
Chọc ghẹo Trình Túy Chi thật khiến lòng vui vẻ, ta nghiêng đầu chống cằm nhìn hắn: “Thấy Trình đại nhân bộ dạng bây giờ, quả thật khiến người ta thương xót.”
Trong đôi mày ngây ngô ấy, bừng lên một tia mừng rỡ dè dặt, khiến ta không nhịn được mà bật cười, nhìn ra cây đào bên ngoài song cửa: “Chốn này hoa đào nở rộ, xuân sắc phơi phới, há lại phụ lòng trời đất.”
Hắn mừng đến không giấu nổi, nghìn vạn điều muốn nói, cuối cùng chỉ thốt được một chữ: “Được.”
Ta bỗng nhớ lại một chuyện: “Chàng đưa bao nhiêu ngân lượng cho đám phu xe trước cửa tiệm ta vậy?”
“Không nhiều, trăm lượng mà thôi.”
“Một trăm lượng? Trình Túy Chi, đầu chàng quả thật là gỗ mục rồi…”
Phiên ngoại
Ta gặp được Họa Doanh từ rất sớm, chỉ là nàng không hay biết.
Năm ấy ta vừa đỗ tú tài, gia sản trong nhà đã gần như cạn kiệt.
Bất đắc dĩ, ta phải ra phố bán tranh chữ kiếm cơm, còn nàng thì bán vải ở tiệm kế bên.
Ngày nào cũng gặp, nàng đến thì rầm rập, đi cũng rầm rập.
Người ngắm tranh ta không ít, nhưng ai cũng mặc cả, ta thì để họ mặc cả cũng chẳng đành từ.
Một ngày kia, ta lại bán bức họa với giá rẻ mạt, thì có tiếng nói lanh lảnh vang lên phía sau: “Chà chà chà, ngươi buôn bán kiểu gì vậy, tiền giấy mực còn không đủ vốn.”
Ta ngoảnh lại nhìn, nàng vẻ mặt dạn dĩ, nói năng thản nhiên: “Trông ngươi coi cũng không tệ, ta chỉ cho ngươi mấy điều.”
“Trông không tệ”? Thật lạ kỳ, nhưng khiến người ta phải bật cười.
“Này nhé, buôn bán phải biết nói lời hay! Nếu là thư sinh đến mua, thì phải nói bức họa mang ý ‘một sớm tung cánh, bằng bay vạn dặm’; nếu là phụ nhân, thì bảo bức họa tượng trưng ‘gia đình sum vầy, phúc lạc trọn đời’…”
Nàng ngồi xổm bên ta, thao thao bất tuyệt. Khi ấy, ta mới nhập môn làm môn sinh dưới trướng Lưu Thái phó, làm gì cũng sai.
Các đồng môn nhà cao cửa rộng, tự nhiên có khí thế. Ta dù dốc toàn lực, cũng chẳng nhận được một lời khen từ Thái phó, ngay cả đồng môn cũng chẳng muốn trò chuyện.
Xuất thân vốn đã định sẵn mọi thứ. Ta không trách người, chỉ hận chính mình không thể cố gắng hơn.
Nàng là người đầu tiên chủ động bắt chuyện với ta. Về sau nghị thân, chẳng ngờ lại gặp lại nàng.
Hai năm trôi qua, nàng càng thêm rạng rỡ, xinh đẹp. Ta giấu kín quá khứ tro bụi kia, vì mấy năm nay, ta đã quen giữ mặt ngoài điềm đạm.
Nàng vẫn thẳng thắn như xưa, cười rạng rỡ nhìn ta: “Trình đại nhân đẹp thật đấy, như tiên trong tranh vậy.”
Ấy là lần đầu ta trái ý Thái phó. Ta biết, xuất thân như ta có được ngày hôm nay, đều nhờ người nâng đỡ.
Phụ mẫu cũng luôn khuyên ta chớ cãi lời Thái phó, bởi ông ấy có ơn sâu với gia tộc.
Ta quỳ dưới chân phụ mẫu, khẩn cầu: “Đời này vì vinh hiển gia tộc, vì môn phái sư thừa, điều gì ta cũng có thể làm, chẳng có mong cầu nào khác. Nay, nguyện vọng duy nhất của ta là được cưới nàng.”
Họ bất lực trước sự cố chấp của ta mà chấp thuận. Hệ quả là Thái phó nổi giận lôi đình.
Người nói ta sai từ bước đầu, về sau ta cũng nhận ra, mình thật sự sai rồi.
Không phải sai vì cưới nàng, mà là bởi ta không có quyền thế trong tay, lại vọng tưởng được nàng.
Ta đã kéo nàng vào chốn địa ngục nơi ta đang sống, mà thân ta vốn sinh ra đã đeo gông xiềng, nàng lẽ ra phải được tự do.
Khi nàng nói muốn hòa ly, lẽ ra ta nên buông tay. Ta ngỡ mình đã thông suốt, nhưng đến lúc đó, bản thân ta lại chẳng thể khống chế nổi.
Ta từng bước đi đến hôm nay, nhìn qua thì chính trực quang minh, nhưng bao nhiêu nhơ bẩn, bao nhiêu tăm tối, chỉ có mình ta hiểu rõ.
Người nàng yêu vốn chẳng phải là ta như bây giờ. Những điều ô uế, đen tối ấy, ta sao có thể mở lời cùng nàng?
Ta thu mình nơi góc tối, mặc cho nàng đập cửa mãi không hồi âm, cho đến khi nàng mỏi mệt mà rời đi.
Từ trước, ta đã là kẻ gánh vác trọng trách, thân không tự chủ, nhưng mỗi ngày được nhìn thấy nàng, lòng ta vẫn sáng lên một thoáng.
Sau khi hòa ly, ta như cái xác không hồn. Phụ thân thấy ta đóng cửa suốt ngày, càng thêm trầm mặc, từng ngày u uất, đau lòng mà thốt: “Phải chăng năm xưa là chúng ta sai, không nên bắt con gánh vác tất cả?”
Tin nàng nghị thân, ta là từ miệng đồng liêu trong triều mà hay biết.
“Trình đại nhân cuối cùng cũng yên tâm rồi, nữ tử hạ lưu kia sắp thành thân với người khác, hẳn sẽ không còn vọng tưởng ngài nữa.”
Ta lạnh lùng liếc nhìn kẻ trêu chọc, hờ hững đáp: “Ngươi sao biết không phải ta mới là kẻ vọng tưởng nàng?”
Hạ triều xong, ta lại lững thững bước trên con đường quen thuộc, đi đến trước tiệm nàng mới sực tỉnh, đã quên phải giấu mình.
Bối rối đành bịa ra lý do vụng về, một trận mưa lớn khiến ta tỉnh táo lại.
Cớ gì ta phải nhường nàng cho người khác? Nay ta đã nắm quyền trong tay, còn ai dám ép ta?
Ai biết rõ mối quan hệ của ta với nàng, mà còn dám tới gần, đều đáng chết.
Khi xoay người, ta bất giác nở một nụ cười – tất cả đã rõ ràng. Ta không cần mỗi ngày chỉ dám trộm nhìn nàng nữa, ta muốn cùng nàng thấu hiểu, đồng hành suốt kiếp.
Ta âm thầm sắp đặt mọi chuyện, lợi dụng tất thảy những ai có thể lợi dụng, đến mức ngay cả bản thân cũng cảm thấy tởm lợm chính mình.
Kỳ thực đêm đó, dù chịu hình, ta vẫn còn tỉnh táo. Ta cố ý dẫn dụ nàng trở lại bên ta lần nữa.
Ta muốn dùng cả đời để đứng bên nàng, hoặc cũng có thể nói, dây dưa với nàng, cho đến tận lúc chết mới thôi.