Thật chẳng giống phong thái xưa kia của ông, hiện giờ thân tàn dáng mỏi, râu tóc rối loạn.

Ông ta đưa mắt nhìn quanh tiệm ta, khàn giọng cất lời: “Họa nương tử, vẫn an ổn chứ?”

Xưa kia ông ta luôn gọi ta là con nha đầu nhà buôn, nay lại xưng hô tôn trọng, khiến ta thực lấy làm lạ.

“Xem ra mấy năm nay nàng sống cũng không tệ, khó trách đứa trẻ kia mãi chẳng buông bỏ được.”

Ông lảo đảo bước vào, giọng nói vẫn còn mang theo vài phần chua chát: “Cũng chẳng biết có gì mà không buông bỏ nổi.”

“Nó xưa nay hiểu chuyện, biết rõ điều gì nên làm, điều gì không nên. Dẫu ta thường khắc khe với nó, nhưng ta là người coi trọng nó nhất.”

Ông ngồi xuống, ta im lặng định dâng trà, ông liền khoát tay từ chối.

“Trước đây nó điều gì cũng nghe ta, vậy mà từ khi cưới nàng, như thể trúng tà.”

“Nó là môn sinh ta thương nhất, sao ta có thể để nó mê mẩn u mê như vậy được?”

Ông nói càng lúc càng kích động: “Trước tiền đồ, tình ái đáng là gì? Dù không cưới con gái ta, thì chọn một tiểu thư nhà danh môn cũng hơn cưới một nữ nhân thương hộ.”

Nói tới đây, lệ đục trào ra nơi mắt già: “Chuyện hòa ly của các ngươi, ta cứ tưởng nó đã nghĩ thông rồi, nào ngờ lại lún sâu tới vậy.”

“Ta vốn muốn nó trèo cao, chứ không phải liều mạng như kẻ không còn đường lui.”

Ta chỉ ngồi lặng một bên nghe, nơi tim như có ai cầm dao cùn mà xát qua từng nhịp.

“Bao năm qua nó ngoài sáng trong tối đều nghịch lại ta, mà hôm nay… ha ha, hôm nay nó bảo muốn cùng ta đoạn tuyệt!”

“Một đứa ta dốc cả đời dạy dỗ, đem hết tâm huyết bồi dưỡng, giờ lại nói muốn cùng ta thanh toán ân tình!”

“Thà nó giết ta còn hơn.”

Lưu Thái phó dùng đôi tay già nua lau nước mắt, nghẹn giọng nói: “Lão phu đến đây không phải để gây khó dễ cho Họa nương tử, nhưng thằng bé đó chịu hình xong vẫn còn hôn mê, miệng không ngừng gọi tên nàng, ngự y cũng chẳng thể đổ thuốc, lão không thể trơ mắt nhìn nó đi vào tử lộ.”

Ông vịn ghế đứng dậy, chắp tay hành lễ với ta: “Nó còn trẻ, nếu nàng còn hờn trách chuyện xưa, thì cứ trách lão mắt mờ lòng loạn đi! Hôm nay lão hạ mình tới đây, chỉ mong Họa nương tử đến thăm nó một lần.”

Lưu Thái phó nói xong lại cúi người hành lễ thật sâu, ta định đỡ mà không ngăn nổi tấm lưng cứng cỏi ấy.

Nhìn bóng ông lảo đảo khuất dần, tâm trí ta rối loạn như tơ vò, không cách nào gỡ được, cuối cùng vẫn quyết định đi gặp hắn.

9

Dẫu rằng hôm nay hắn đã là Tể tướng đương triều, phủ đệ vẫn chẳng khác bao nhiêu so với trước kia.

Gia nhân canh cửa thấy là ta liền hốt hoảng chạy vào bẩm báo với Trình lão gia cùng phu nhân.

Trình phu nhân vội vàng bước ra, thấy ta liền đỏ hoe đôi mắt: “A Doanh, con thật sự đến rồi ư, vốn không nên quấy rầy con, chỉ là… Túy Chi hắn…”

Bà vừa dùng khăn tay lau lệ, vừa kéo ta vào trong, chẳng ngờ mấy năm rồi, ta lại một lần nữa bước qua cánh cửa ấy.

Cây đào trong viện chẳng rõ từ khi nào đã cành lá sum suê, trong gió đêm đong đưa từng nhành hoa, tựa hồ sợ người ta không nhìn thấy mà rung rinh dữ dội.

Trong phòng ngủ, mùi máu tanh cùng thuốc thang hòa quyện, nồng đậm đến mức khiến người khó thở.

Trình Túy Chi nằm trên giường, dáng vẻ thảm thương, trông thật đáng thương hại.

Từng giọt mồ hôi lấm tấm lăn dài trên gương mặt trắng bệch như giấy.

Toàn thân hắn nóng rực, mắt nhắm nghiền, chìm trong cơn mê mộng, miệng lẩm bẩm chẳng dừng: “Trả hết rồi… Doanh Doanh, ta đã trả hết rồi.”

“Không còn ai có thể ngăn trở… chúng ta nữa, Doanh Doanh, hoa đào đã nở cả rồi, cớ sao nàng còn chưa về.”

Lời càng lúc càng uất nghẹn, giọng như sắp khóc: “Sao nàng lại… không cần ta nữa, nàng không cần ta, thì còn cần ai nữa đây?”

Ta khẽ vỗ vai hắn: “Dậy mà uống thuốc đi, chàng sắp liệt nửa người rồi mà còn bận tâm mấy chuyện này sao?”

Nghe tiếng, hắn ngơ ngác mở mắt, cố gắng phân rõ bóng người trước mắt.

Không biết từ đâu ra sức lực, hắn bất ngờ vươn tay nắm chặt cổ tay ta, suýt làm đổ chén thuốc trong tay.

“Là nàng… là nàng thật sao… nàng tới rồi! Sao nàng lại đến? Ta lại đang mộng ư?”

“Phải rồi, chẳng biết chàng đang mộng mị những gì nữa.”

Ta gắt nhẹ một câu, hắn thì chớp chớp đôi mắt ướt sũng nhìn ta.

Giờ phút này hắn đã trút bỏ mọi lớp vỏ bọc, lại nghiêng hẳn sang một thái cực khác, như kẻ ăn vạ: “Nàng không được cùng người khác sánh đôi, không được cùng hắn vô tư tâm sự, không được rời ta mà đi…”

Ta nào có nói sẽ cùng Tống Lận rời đi, hẳn là mấy tên phu xe ham bạc nói dối gạt hắn.

Ta thở dài bất đắc dĩ: “Vậy thì chàng uống thuốc trước đã.”

Hắn bật cười lạnh, ánh mắt bỗng chốc trở nên dữ dằn: “Nếu hắn dám đưa nàng đi, ta tuyệt đối không tha! Ta có trăm nghìn cách khiến hắn biến mất! Vĩnh viễn biến mất!”

Nhìn hắn hiện tại mình đầy thương tích, liệt nửa người, còn dọa ai được nữa? Chẳng biết là hắn hay Tống Lận sẽ biến mất trước.

“Chàng uống thuốc đi, không uống thì chính chàng mới là người biến mất đó.”

Giọng ta nhẹ nhàng hơn một chút, hắn vẫn giữ lấy tay ta không buông, nhưng cuối cùng cũng chịu ngoan ngoãn uống thuốc.

Trước lúc mê man trở lại, hắn lưu luyến nhìn ta: “Người ta bảo ta nên uống thuốc an thần, nhưng uống rồi thì chẳng còn mơ thấy nàng nữa.”

Ta đặt bát thuốc rỗng xuống, trong lòng bỗng rối bời không biết phải làm sao: “Nếu quả thật chẳng thể buông, sao ba năm qua lại chưa một lần tới gặp?”

Hắn kéo tay ta, gối lên bên má mà thiêm thiếp: “Ta lấy gì để đối mặt với nàng, khi thấy nàng sống tốt như vậy? Còn khi ở bên ta, nàng luôn phải kìm nén mình. Nàng vốn là một người rực rỡ, chẳng nên thu liễm chỉ vì ta… Nhưng ta thật lòng rất nhớ nàng, vẫn thường lén lút đi nhìn nàng…”

Gió đêm lướt qua khe cửa, bóng nến chao nghiêng, hắn khép mắt, môi vẫn nở nụ cười: “Nàng mặc y phục rực rỡ rất đẹp, giống y trong mộng của ta, ta không nên đến quấy rầy nàng… Ta đã dặn lòng không biết bao nhiêu lần rồi, nhưng ta chẳng thể nghe nổi chính mình… Lão sư còn mắng ta rằng ban ngày cũng mộng du…”

Quả là một khối đầu gỗ, ta vừa cười vừa thấy đôi mắt mình nhòe đi tự lúc nào.

Có lẽ là vì hoa đào ngoài cửa sổ, rực rỡ quá mà làm cay mắt người ta.