2

Sau đó, ta thường đến nhà A Bình.

Vì mẫu thân của A Bình đã thay đổi. Bà nói rằng bà sẽ dạy A Bình biết chữ.

Ta theo A Bình, bà cũng dạy ta.

A Bình hỏi mẹ: “Nương ơi, cha nói con mười tuổi sẽ bị bán đi, biết chữ thì có ích gì đâu?”

Mẹ A Bình vuốt đầu cô, thở dài: “Con ơi, nương vô dụng, không bảo vệ được con. Nương từng nghĩ, có lẽ nếu cả đời con chẳng biết gì, cũng là một điều tốt. Nhưng sau này nghĩ lại, nếu thực sự cả đời không biết gì, thì đến cả bản thân là ai, sống vì điều gì, con cũng không hiểu được. Dù là đau đớn, cũng tốt hơn là mãi mãi vô cảm.”

Thực ra lúc đó, ta vẫn còn suy nghĩ, A Bình là A Bình, ta là ta, sao lại không biết mình là ai?

Cho đến một hai năm sau, khi ta và A Bình đã học được khá nhiều chữ, nghe nhiều câu chuyện mẫu thân A Bình kể. Những từ ngữ phức tạp ấy chúng ta không nhớ rõ, nhưng trong lòng cũng đã mơ hồ hiểu được vài phần.

Những lý lẽ của những bóng hình ấy, ta không hoàn toàn hiểu được.

Nhưng ta phát hiện ra, ta bắt đầu ghét Đào Trang, ghét cha, cũng ghét chính mình.

Năm đó ta bảy tuổi.

Sau hai năm, ta mang theo vài quả dại hái được trên núi, một lần nữa, lén lút đến hầm tối.

Ta đặt những quả dại cách xa một chút, rồi lại đối diện với ánh mắt càng thêm vô hồn và tuyệt vọng của nàng.

Ta cúi mắt xuống.

Không gian lặng im hồi lâu, ta nghe thấy giọng nói của chính mình: “Ta giúp mẫu thân về nhà, được không?”

Người đối diện không có bất kỳ động tĩnh nào.

Tựa như đã qua rất lâu, rất lâu, tiếng xích sắt vang lên. Ta ngẩng đầu, nhìn thấy trong đôi mắt của nàng, cuối cùng có một chút gì đó khác biệt.

Đêm ấy, trăng sáng treo cao trên bầu trời, cha ta và cha của A Bình say khướt trong sân.

Ta ôm lấy bọc nhỏ của mình, chạy về phía sau núi.

A Bình và nương của nàng ấy cùng đi với ta.

Thực ra, từ hai năm trước, mẹ của A Bình đã bắt đầu lên kế hoạch.

Bà đã đau khổ và giằng xé rất lâu, cuối cùng vẫn muốn thử cho chính mình một cơ hội.

Vì vậy, bà dạy A Bình đọc sách, học chữ. Nếu bà có thể thành công thoát khỏi nơi này, đó sẽ là điều duy nhất bà để lại cho A Bình.

Nhưng sau hai năm ở bên nhau, tình mẫu tử không thể cắt đứt. Bà quyết tâm đưa A Bình đi cùng.

A Bình đã kể cho ta bí mật này, và ta nói, ta biết có một con đường nhỏ rất hiểm trở ở sau núi. Đó là con đường ta vô tình phát hiện ra khi hái quả dại.

Còn trong bọc của ta, có một chiếc áo dính máu.

Đó là áo mà nàng, trong hầm tối, đã dùng máu từ ngón tay viết lên khi ta cởi bỏ chiếc áo lót của mình.

Nàng đã gãy chân, ta không thể đưa nàng đi.

Ta nói, ta nhất định sẽ thay nàng mang đến kinh thành, nơi mà ta chưa từng nghe qua bao giờ.

Chúng ta lẩn trốn trong những dãy núi trùng điệp suốt nhiều ngày.

Đói thì gặm vỏ cây, khát thì uống nước suối, hoàn toàn không dám ngoái đầu lại.

Nương A Bình nói, nhiều năm như thế, đây là lần đầu tiên bà nhìn thấy một tia hy vọng.

Bụi gai, cơn mưa gió bão táp không thể ngăn bước chân của chúng ta.

Giày đã mòn nát từ lâu, bàn chân ta rướm máu đầm đìa, nhưng ta không cảm thấy đau.

A Bình lên cơn sốt, chúng ta bị lạc trong rừng rậm, nhưng vẫn không dám bước lên quan đạo.

Chỉ vì trước kia, có nữ nhân trong làng trốn ra ngoài, rõ ràng đã trốn thoát, nhưng vì đi qua quan đạo, không biết vì sao, cuối cùng vẫn bị bắt trở lại.

Có lẽ trời xanh cuối cùng đã giúp chúng ta một lần, khi chúng ta hoang mang, không biết nên làm thế nào, bỗng nhiên xuất hiện một thợ săn, đã cứu chúng ta.

Ông đưa chúng ta về nơi ở của mình trong núi, đó là vài căn nhà tre nhỏ, rất sạch sẽ và ngăn nắp.

Thợ săn nói rằng, ông biết một chút y thuật.

A Bình sốt cao, chưa tỉnh lại, phải hạ sốt và dưỡng bệnh thêm vài ngày.

Ban đầu, chúng ta rất cảnh giác và sợ hãi.

Nhưng khi không còn đường lui, ông không hỏi chúng ta từ đâu đến, chỉ đơn thuần là giúp đỡ.

Trong nhà của thợ săn còn có một bé trai, có lẽ là nhi tử của ông, trông cũng chạc tuổi ta.

Cậu ấy da hơi ngăm, nhưng đôi mắt sáng và rất đẹp. Vết thương ở chân ta là do cậu ấy băng bó.

Cậu ấy, giống như thợ săn, ít nói lắm.

Ta cảm kích cậu, muốn hỏi tên, nhưng chợt nghĩ lại, ta cũng chẳng có tên, nên không hỏi nữa.

Ba ngày ở trong căn nhà tre nhỏ ấy là những ngày bình yên nhất trong suốt khoảng thời gian dài ấy của ta.

Khi A Bình khỏi bệnh, thợ săn tự nguyện nói rằng, ông có thể đưa chúng ta đến bến thuyền gần nhất.

Ở đó, có một người chủ thương hội mà ông quen biết, có thể giúp chúng ta trở về nhà an toàn.

Ta hỏi ông, nếu đi kinh thành thì sao?

Ông ngẩn người, như do dự hồi lâu, cuối cùng đáp: “Có thể.”

Ông vẫn không hỏi gì.

Tại bến thuyền, ta, A Bình và mẫu thân nàng ấy đã lạy ông ba lạy.

Ân sâu khó báo, lòng cảm kích khó nói thành lời.

Đứa bé trai đi theo thợ săn, sau khi chúng ta đứng dậy, đưa cho ta một cái lọ gốm nhỏ: “Chân của ngươi chưa lành hẳn, cái này có thể giúp giảm đau.”

Ta nhìn vào đôi mắt đẹp ấy, nhận lấy chiếc lọ, ngây ngốc nói một câu cảm ơn.

Sau này, cái lọ gốm nhỏ ấy ta luôn mang bên mình.

Vì đó là lần đầu tiên trong cuộc đời ta, có người quan tâm đến nỗi đau của ta.

Sự tử tế hiếm hoi ấy, ta mãi mãi trân trọng.

3

Ta và A Bình chia tay ở bến thuyền đi về Giang Nam.

Mẹ của A Bình nói, chỉ cần ta muốn, có thể theo họ về nhà.

Ta lắc đầu, ôm chặt bọc nhỏ của mình. Ta còn một lời hứa.

Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, ta cảm thấy mình đã trưởng thành rất nhiều.

Ta và A Bình từ biệt ở bến thuyền, nàng ôm lấy ta khóc. Chúng ta đã lớn lên cùng nhau, nàng nói, nàng không nỡ rời xa ta.

Ta không có gì để tặng nàng, chỉ có thể nói: “A Bình, ngươi và thẩm thẩm, sau này phải luôn vui vẻ, bình an.”

Nàng lau nước mắt, rồi móc ngón út với ta: “Ngươi cũng vậy.”

Chúng ta lên hai con thuyền khác nhau. Khi thuyền khởi hành, cả hai đứng ở đầu thuyền, vẫy tay từ biệt nhau.

Khi ta đến kinh thành, đã là hai tháng sau.

Vị chủ thương hội tốt bụng đưa ta đến nơi, còn cho ta một ít bạc:

“Cô nương, ta đã nhận lời giao phó của Thiếu Nguyên, giờ đã an toàn đưa ngươi đến nơi. Đã vậy, ta xin cáo từ. Chúc ngươi sớm gặp lại thân nhân.”

Ta không nói cho ông ấy biết ta đang tìm ai, vì nàng dặn rằng, không thể tùy tiện nói với người ngoài. Vì thế, chủ thương hội đã đưa ta đến một khách điếm.

Sau khi ông rời đi, ta một mình đứng trên phố kinh thành, cảm thấy nơi này hoàn toàn vượt xa mọi tưởng tượng trước kia của ta.

Ta hỏi đường người quản lý khách điếm, cẩn thận ôm lấy chiếc áo dính máu trước ngực, rồi đi đến quan phủ mà nàng từng kể cho ta.

Sau này ta mới biết, vị quan phủ râu tóc bạc phơ ấy là cửu cửu của nàng. Khi ta đánh trống kêu oan, trình lên chiếc áo dính máu, ông vội vã chạy đến, ôm chiếc áo mà khóc rưng rức.

Ông cho lui hết mọi người, sau khi hỏi kỹ mọi chi tiết, liền gọi người đến, nhốt ta vào một ngục tối.

Ngục tối ẩm ướt, không thấy ánh mặt trời. Ta ôm gối, thu mình vào góc tường, nghĩ rằng nơi này cũng không khác hầm tối ở nhà là bao.

Ta không rõ mình đã ở trong ngục bao lâu. Có lẽ đã mấy tháng trôi qua, mỗi ngày đều có người mang thức ăn đến, nên sau đó ta nghĩ, bị nhốt ở đây mãi, có lẽ cũng là ngày tháng thần tiên.

Vì mỗi bữa ăn đều có thịt, thứ mà trước đây ta chưa từng được nếm. Chăn đệm lại mềm mại đến mức kỳ lạ.

Nhưng ở trong ngục lâu ngày, không có ai nói chuyện, thỉnh thoảng cũng thấy nhàm chán.

Ta đã giấu một ít thịt ở góc tường, mỗi đêm, lũ chuột lại đến, phát ra tiếng kêu chí chóe.

Chúng đã quen với ta, không còn sợ hãi nữa. Chúng ăn thịt, còn ta nhìn chúng.

Ta ôm gối, ngồi bên cạnh, nói chuyện với chúng:

“Chuột nhỏ, các ngươi nói, mẫu thân của ta… nàng đã được cứu về nhà chưa?”

Chuột nhỏ nhìn ta một cái, ta lại bẻ một miếng thịt đặt xuống đất, rồi tiếp tục nói: “Hy vọng nàng có thể đoàn tụ với gia đình.”

Ta nghĩ đến hình ảnh vị quan phủ ôm chiếc áo dính máu mà rơi lệ, lòng có chút buồn bã. Nhiều năm như thế, gia đình nàng hẳn đã phải chịu bao nhiêu đau khổ.

Trong lòng ta sinh ra một cảm giác thấp hèn sâu thẳm. Đây là lần đầu tiên ta cảm nhận rõ ràng sự tồn tại của mình lại đáng khinh như vậy.

Khi ta không nhớ rõ lần thứ mấy đang kể nỗi lòng với lũ chuột, thì có người đến ngục.

Đó là một người nữ nhân phúc hậu và cao quý, rõ ràng là đã có tuổi, nhưng vẻ ngoài vẫn rất trẻ trung.

Theo sau bà là nhiều người. Khi ánh đèn sáng rọi vào ngục, vài con chuột béo chạy trốn thật nhanh, một mảnh thịt bị kéo theo, rơi xuống dưới chân váy của bà.

“Mạo phạm, dám xúc phạm Thái hậu nương nương.”

Thị nữ phía sau bà lớn tiếng quát mắng.

Ta cúi đầu thật thấp, ta không biết Thái hậu là ai, nhưng hiểu rằng, bà chắc hẳn là một người rất tôn quý.

Qua cửa lao, ta quỳ trên đất, rất lâu không dám ngẩng đầu lên.

Cho đến khi một tiếng thở dài nhẹ vang lên, giọng nói của bà, ngoài dự đoán, lại mang theo chút thương xót: “Đứng lên đi.”

Ta vẫn không dám đứng dậy, nhưng ngẩng đầu lên.

Ánh mắt từ ái của bà nhìn chằm chằm vào khuôn mặt ta, sau khi yên lặng ngắm nhìn một hồi lâu, bà khẽ nói: “Đôi mắt này, rất giống nàng.”

Trong khoảnh khắc ấy, ta nhận ra, người mà bà nhắc đến là ai.

Ta ngập ngừng giây lát, rồi cẩn trọng hỏi: “Nàng… đã về nhà chưa?”

Người phụ nữ lớn tuổi nhìn ta, ánh mắt hiền hòa, nhẹ nhàng gật đầu.

Ngày hôm ấy, ta được bà đưa ra khỏi ngục, bước vào một nơi gọi là hoàng cung.

Scroll Up