13
Không còn bận tâm đến Tạ Chí nữa, tôi cùng Tiểu Tô lái xe đến Tây Tạng.
Lucky không sợ ngồi xe, ngược lại, nó còn tò mò như một đứa trẻ, mỗi ngày đều bám vào cửa sổ xe để nhìn cảnh vật lùi lại phía sau.
“Con mèo của cậu thật đáng yêu.”
Tiểu Tô đã trở nên thân thiết với tôi hơn, cậu ấy cũng dần dần biết cách đáp lại những câu đùa của tôi, thậm chí đôi khi còn chủ động kể vài chuyện thú vị.
Cậu ấy luôn mắc chứng tự kỷ nhẹ, nhưng những cảnh quan hùng vĩ dọc đường đi cũng dần dần chữa lành cho cậu ấy.
“Lucky là mèo của một người bạn tôi, đó là báu vật của anh ấy.”
Tiểu Tô đã biết một chút về câu chuyện của Trình Dư qua tôi, cậu ấy cũng rất đồng cảm với chàng trai thích tắm nắng đó. Nghe tôi nói vậy, cậu lập tức chuyển đề tài, sợ làm tôi buồn.
Khi cùng Tiểu Tô vào Tây Tạng, cả hai chúng tôi không nhịn được mà xuống xe và hô vang một tiếng.
Tiểu Tô phản ứng còn mạnh hơn tôi, cậu lập tức lôi giá vẽ ra khỏi cốp xe, rồi bắt đầu vẽ theo cảnh núi ở đằng xa.
Tôi cầm máy ảnh chụp vài tấm, rồi cũng mở giá vẽ ra trong lúc rảnh rỗi, nhìn quanh một vòng và bắt đầu vẽ Trình Dư.
Bức tranh này tôi đã vẽ suốt nửa tháng, liên tục sửa đi sửa lại, thậm chí có đến bảy lần xé nát rồi vẽ lại từ đầu, nhưng dù vẽ thế nào tôi vẫn không hài lòng.
Trình Dư trong ký ức của tôi là một chàng trai hiền hòa, luôn đứng bên ánh nắng. Tôi đã vẽ lại cảnh lần đầu gặp cậu ấy ở trạm xe sau khi tôi mất trí nhớ, khi cậu ấy chìa tay ra và mỉm cười thân thiện với tôi.
Tôi cũng đã vẽ cảnh cậu ấy đưa tôi vào bệnh viện khi tôi bị trầm cảm, và nụ cười của cậu khi tôi tỉnh dậy.
Tôi còn vẽ lại cảnh cậu ấy, khi bệnh tình đã quá nặng, co ro trên chiếc ghế và nhắm mắt tắm nắng.
Nhưng tôi đều không hài lòng, cảm giác như vẫn thiếu một điều gì đó.
Tiểu Tô khen ngợi những bản vẽ mà tôi đã xé bỏ, nói rằng tôi chỉ quá khắt khe với bản thân, chỉ là vài khiếm khuyết nhỏ, có thể tạm chấp nhận được.
Tôi kiên quyết nói với cậu ấy: “Không thể qua loa với Trình Dư.”
Trên thế giới này, chỉ còn mình tôi nhớ đến cậu ấy, tôi tuyệt đối không thể qua loa.
Tiểu Tô không hiểu, nhưng cũng không khuyên tôi nữa.
Nửa tháng sau, tôi và Tiểu Tô mang giá vẽ đến trước cung điện Potala vào sáng sớm, chờ đón bình minh.
Đêm ở Tây Tạng lạnh lẽo, Tiểu Tô đặc biệt mang thêm một chiếc áo khoác cho tôi và nói: “Cô có thể ngủ một lát, khi mặt trời lên tôi sẽ gọi cô dậy.”
Tôi lắc đầu và cảm ơn lòng tốt của cậu ấy.
Thời gian chờ đợi bình minh thật nhàm chán, đến cả Tiểu Tô cũng không chịu nổi sự buồn chán, chủ động kể cho tôi một câu chuyện cười.
“Cô có biết tại sao Chúa chưa bao giờ đọc kinh Phật không? Vì Ngài không biết nói tiếng Trung.”
Câu chuyện cười của cậu ấy rất nhạt nhẽo, nhưng vẻ mặt mong chờ của Tiểu Tô lại khiến tôi thấy buồn cười hơn.
Sau thời gian dài ở bên nhau, tôi nhận ra Tiểu Tô giống như một đứa trẻ, thích đồ chơi ngớ ngẩn, thích đồ ngọt, thích kể những câu chuyện cười vô vị.
Tôi và cậu ấy ngày càng trở nên thân thiết, cậu ấy bắt đầu gọi tôi là chị Nguyên Nguyên, còn tôi vẫn gọi cậu là Tiểu Tô, nhưng tôi ngày càng chăm sóc cậu như một đứa em trai.
14
Người chờ đón bình minh ngày càng đông, nhưng mặt trời như một cô gái e thẹn, mãi vẫn chưa chịu xuất hiện.
Tiểu Tô ngáp hai cái, cây bút trong tay rơi xuống đất.
Mặt trời chưa lên, tầm nhìn vẫn còn thấp, tôi cúi xuống tìm cây bút lăn đâu đó.
Quảng trường tập trung rất nhiều người, tôi cúi đầu tìm quanh chân mình.
Tiểu Tô chỉ thích dùng cây bút quen tay, nếu mất đi cây bút đó, chắc cậu ấy sẽ rất buồn.
Khi tôi vừa tìm thấy cây bút, tôi nghe thấy những tiếng reo hò trên đầu.
Tôi cầm bút, đứng dậy và không kìm được cũng thốt lên lời tán thưởng.
Mặt trời đỏ rực, khoác lên chiếc váy vàng rực rỡ, nhảy vọt qua những dãy núi xanh chập chùng, rọi xuống nhân gian tia sáng đầu tiên của sự ban phước, phản chiếu với mái vòm vàng của cung điện Potala, tràn đầy sự trang nghiêm và thần thánh.
Trong đám đông, có người quỳ xuống tụng kinh, có người chắp tay cầu nguyện, có người cầm bút vẽ với vẻ mặt đầy thành kính.
Cuối cùng tôi cũng hiểu ra điều gì còn thiếu trong bức tranh về Trình Dư.
Trình Dư chính là sự ban phước tốt làn nhất mà tôi đã nhận được.
Tôi cầm bút và bắt đầu vẽ, gần đây tôi đã vẽ Trình Dư rất nhiều lần, chỉ cần nhấc bút là tôi đã nhanh chóng phác họa đôi mắt, chân mày của cậu ấy, tôi vẽ một ánh sáng màu đỏ ánh vàng quanh người cậu dưới ánh bình minh.
Tôi vẽ cuộc gặp cuối cùng của chúng tôi, cậu ấy hơi giơ tay lên làm động tác ôm, nụ cười dịu dàng, trong mắt đầy tiếc nuối.
Tôi còn vẽ thêm một bông hoa diên vĩ đang nở rộ trong tay phải của cậu.
Khi Tiểu Tô vẽ xong bức tranh bình minh, cậu nhìn qua bức tranh của tôi.
“Đây là Trình Dư sao? Thật sự đã khác rồi.”
Tôi hơi ngạc nhiên, hỏi: “Khác ở điểm nào?”
Tiểu Tô nhíu mày ngắm nghía bức tranh của tôi một lúc lâu, cuối cùng khó khăn nói: “Ừm… trước đây chỉ cảm thấy cậu ấy rất dịu dàng, bây giờ thì là sự dịu dàng có hơi ấm, giống như cảm giác khi tắm nắng vậy.”
Tôi gật đầu đồng ý.
Tiểu Tô cho tôi xem bức tranh bình minh mà cậu vẽ, cảnh sắc hầu như không khác gì so với thực tế, thậm chí còn tạo cảm giác huyền ảo hơn.
Với bức tranh này, có lẽ cậu ấy sẽ ngay lập tức trở thành một họa sĩ nổi tiếng. Nhưng Tiểu Tô dường như không quan tâm lắm, cậu hào phóng đưa bức tranh cho tôi.
“Tôi đã hứa sẽ vẽ bình minh thay cậu.”
Cuối cùng, tôi vẫn không nhận bức tranh đó, và tôi cũng để lại bức “Dư” cho Tiểu Tô. Tôi đã được phép đăng tải bức tranh của cậu ấy lên mạng, và Tiểu Tô đã nổi tiếng chỉ sau một đêm.
Một số bức tranh cũ của cậu ấy cũng được phát hiện, thậm chí có người đề nghị tổ chức một triển lãm tranh, và bức bình minh sẽ được đặt ở vị trí trung tâm.
Tiểu Tô đến hỏi ý kiến tôi, tôi trả lời cậu ấy: “Nếu có thể, hãy đặt bức ‘Dư’ trong triển lãm của cậu, tôi muốn nhiều người có thể nhớ đến cậu ấy.”
“Nhớ rằng đã từng có một chàng trai rất dịu dàng, tên là Trình Dư, chữ ‘Dư’ trong ‘bệnh mãi không khỏi’, và cậu ấy có một con mèo tên là Lucky.”
Triển lãm tranh của Tiểu Tô đã rất thành công, khi chúng tôi trở về, Chu Lệ đã chuyển đi, cô ấy đến thủ đô để tạo dựng sự nghiệp cho mình.
Khi tôi trò chuyện với cô ấy về việc cô ấy đang yêu xa, Chu Lệ trả lời rất thản nhiên.
Cô ấy nói: “Trần Nguyên, nếu anh ấy thật sự yêu tớ, dù có cách xa ngàn dặm, dù chỉ có thể nghe giọng qua điện thoại, thì cũng không thể ngăn cản được nỗi nhớ của anh ấy.”
“Nếu anh ấy không yêu tớ, Trần Nguyên, đây không gọi là yêu xa, mà là tìm cho mình một ông bố nuôi ở nơi xa, chỉ để tự làm khổ mình mà thôi.”
Chu Lệ luôn miệng độc địa, tôi không nhịn được mà bật cười ngã xuống giường.
Tôi cũng kể cho cô ấy nghe về Tiểu Tô, giờ đây tranh của Tiểu Tô rất khó mua, bức tranh bình minh có giá cao nhất đã đạt tới bảy mươi triệu, nghe nói bức ‘Dư’ của tôi cũng có nhiều người trả giá cao.
Theo ý tôi, Tiểu Tô đã từ chối tất cả, cậu ấy thậm chí còn đặt một tấm bảng nhỏ cạnh bức tranh, ghi tên Trình Dư và câu nói mà cậu ấy thường nhắc đến.
Lucky ngày càng béo, nó thường nằm trong ổ mềm ngủ, chỉ khi có nắng mới ra ngoài phơi nắng, và khi tôi gọi nó ăn cơm, nó chạy nhanh như bay, như thể có cánh vậy.
Tôi vẫn tiếp tục công việc vẽ tranh, cuộc sống trôi qua bình dị nhưng hạnh phúc.
Thời gian dịu dàng như dòng nước, từ từ xoa dịu những vết thương.