29
“À, đúng rồi,” Kỷ Sương như chợt nhớ ra điều gì đó, bổ sung thêm, giọng điệu mỉa mai càng sâu, “Hách Châu Văn, chẳng phải anh yêu đất nước và nhân dân của anh nhất sao? Anh là anh hùng chiến đấu, là đoàn trưởng gương mẫu, là hình mẫu của bao nhiêu người. Anh chết rồi, đất nước anh phải làm sao? Những ‘nữ đồng chí’ cần anh chăm sóc kia, ví dụ như Giang Dự, thì phải làm sao đây?”
Mỗi một chữ, đều như mũi kim tẩm băng, chính xác đâm thẳng vào vết thương cũ đau đớn và nhơ nhớp nhất của Hách Châu Văn.
Anh trừng trừng nhìn Kỷ Sương, nhìn đôi mắt phẳng lặng không gợn sóng của cô, nhìn con dao rọc giấy lóe ánh lạnh trong tay cô.
Bỗng nhiên, anh cười.
Tiếng cười khàn khàn, điên dại, tràn đầy ý vị tự hủy.
“Được… được…” anh lẩm bẩm, ánh mắt trống rỗng, như thể cuối cùng cũng đã hạ quyết tâm nào đó.
Sau đó, trong ánh mắt đột ngột co rút của Kỷ Sương, trong tiếng kêu kinh hãi dồn dập vang lên từ bên dưới —
Hách Châu Văn vươn tay, chộp lấy con dao rọc giấy!
Lưỡi dao sắc bén lập tức rạch toạc lòng bàn tay anh, máu tươi trào ra, men theo thân dao sáng loáng nhỏ xuống.
Nhưng anh dường như không cảm thấy đau, chỉ siết chặt lấy nó, rồi, trước ánh mắt kinh hãi của Kỷ Sương và tất cả mọi người, anh xoay mũi dao, nhằm thẳng vào đùi mình, hung hăng, không do dự, đâm mạnh xuống!
“Phập!”
Âm thanh lưỡi dao xuyên vào da thịt bị gió cuốn đi hơn nửa.
Máu tươi tức thì bắn ra, nhuộm đỏ ống quần xanh quân đội của anh, còn văng vài giọt lên bậu cửa sổ của Kỷ Sương.
“Như vậy… đủ chưa?” Hách Châu Văn ngẩng đầu lên, sắc mặt vì đau đớn và mất máu mà tái nhợt, gân xanh trên trán nổi lên, mồ hôi lạnh túa ra, nhưng anh lại nhe răng, nở một nụ cười còn khó coi hơn cả khóc, điên cuồng nhìn chằm chằm vào Kỷ Sương.
“Nếu vẫn chưa đủ…” bàn tay nắm cán dao của anh vì dùng sức mà khớp ngón tay trắng bệch, làm bộ muốn đâm sâu thêm, “tôi có thể đâm thêm một nhát… hai nhát… ba nhát… cho đến khi em thấy đủ thì thôi…”
Đồng tử của Kỷ Sương kịch liệt co lại.
Cô nhìn vết thương ở đùi Hách Châu Văn đang không ngừng tuôn máu, nhìn nụ cười gần như phát điên, tự hủy của anh, nhìn đôi mắt đỏ ngầu, tràn ngập tuyệt vọng và cố chấp của anh…
Không có đau lòng, không có rung động.
Chỉ có một luồng lạnh lẽo băng giá, gần như nghẹt thở, từ gan bàn chân trong nháy mắt lan khắp tứ chi bách hài.
Kẻ điên.
Người đàn ông này, đã hoàn toàn điên rồi.
Kỷ Sương khẽ khép mắt lại, rồi, dưới ánh nhìn gần như cuồng loạn của Hách Châu Văn, cô “rầm” một tiếng, đóng sầm cửa sổ.
Kéo rèm lại.
Cách lớp kính, giọng nói lạnh lẽo mà rõ ràng của cô truyền ra, không lớn, nhưng đủ để Hách Châu Văn đang bám ngoài cửa sổ nghe thấy rõ:
“Muốn chết thì cút xa một chút.”
“Đừng làm bẩn chỗ của tôi.”
Buổi sáng lạnh lẽo ở Moskva hôm ấy, Hách Châu Văn được hàng xóm tốt bụng phát hiện, ngã trong vũng máu lẫn tuyết, được đưa đi cấp cứu khẩn cấp và giữ lại được một mạng.
Vết dao ở chân rất sâu, tổn thương gân, để lại di chứng tàn tật nhẹ vĩnh viễn.
Vết thương ở lưng cũng lần nữa bục ra, nhiễm trùng lặp đi lặp lại.
Anh nằm viện ở Moskva gần một tháng nữa, sau đó bị người của cấp trên gần như áp giải, đưa lên máy bay về nước.
Sau khi về nước, Hách Châu Văn như biến thành một con người khác.
Vị đoàn trưởng từng lạnh lùng, tự chủ, luôn đặt đại cục và chiến lược lên hàng đầu ngày xưa đã biến mất, thay vào đó là một sĩ quan trầm mặc ít lời, ánh mắt chết lặng, nhưng khi chấp hành nhiệm vụ lại điên cuồng như một kẻ mất trí.
Trên người thêm vô số vết sẹo mới, chồng chất lên sẹo cũ, dữ tợn đáng sợ.
Huân chương quân công lần lượt được đặt vào hộp, anh trở thành “kẻ điên sắt máu”, “tam lang liều mạng” nổi tiếng toàn quân.
Lãnh đạo khen ngợi, chiến hữu khâm phục, binh lính kính sợ.
Nhưng chỉ có bản thân anh biết, mỗi lần tỉnh lại sau hôn mê vì trọng thương, toàn thân bị đau đớn xé nát, ý thức mơ hồ, thứ bật ra khỏi miệng anh, vĩnh viễn chỉ có hai chữ:
“Sương Sương…”
Còn khi hoàn toàn tỉnh táo, đối mặt với căn phòng đầy hoa tươi, lời thăm hỏi của lãnh đạo, ánh mắt tôn kính của chiến hữu, anh chỉ cảm thấy trong lòng trống rỗng đến đáng sợ, như thủng một cái hố lớn, gió lạnh Siberia rít gào xuyên qua.
Những vinh dự và sự kính trọng ấy không lấp đầy được cái hố đó, ngược lại còn khiến anh cảm thấy càng hư ảo, càng… giống như một trò cười.
Anh bắt đầu vô thức thu thập mọi tin tức liên quan đến Kỷ Sương, như thể đã nghiện một thứ độc dược không thuốc nào cứu được.
30
Anh nhờ những chiến hữu cũ vẫn còn ở hệ thống văn công để ý giúp.
Anh đặt mua những tờ báo có chuyên mục văn nghệ.
Anh thậm chí còn học cách tìm kiếm manh mối trong những bản tin trao đổi văn hóa đối ngoại khô khan, khó hiểu.
Tin tức truyền về lúc đứt lúc nối.
Buổi biểu diễn tốt nghiệp của Kỷ Sương tại Liên Xô gặt hái thành công, được báo chí địa phương ca ngợi là “Thiên nga phương Đông”.
Cô về nước, không quay lại quân khu cũ, mà được Đoàn Ballet Quốc gia đặc cách tuyển thẳng.
Buổi công diễn đầu tiên của cô tại Bắc Kinh, vé bán sạch không còn một chỗ, gây chấn động cả kinh thành.
Cô theo đoàn lưu diễn châu Âu, giành được giải thưởng.
Cô trở thành một trong những diễn viên chính trẻ tuổi nhất của đoàn.
Cô cải biên và sáng tác những vở ballet mang đậm màu sắc dân tộc Trung Hoa, nhận được vô số lời khen ngợi.
Mỗi lần nghe được tin tức về cô, tim Hách Châu Văn lại như bị ném vào chảo dầu, bị chiên đi chiên lại.
Đau đớn, bởi vì cô càng lúc càng tốt, càng lúc càng rời xa anh, chứng minh rằng không có anh, cuộc đời cô còn rực rỡ và rộng lớn hơn.
Nhưng đồng thời, anh lại nghiện việc biết thêm về cô, như thể thông qua những mẩu tin vụn vặt ít ỏi ấy, anh vẫn có thể miễn cưỡng chạm tới, trong thế giới đã sớm ngoài tầm với kia, một chút hơi ấm còn sót lại thuộc về cô.
Anh biết như vậy rất đê hèn, rất nực cười.
Nhưng anh không khống chế được.
Chỉ khi chấp hành những nhiệm vụ liều mạng, trong mưa bom bão đạn, trong khoảnh khắc sinh tử một đường, anh mới có thể tạm thời quên đi sự trống rỗng và đau đớn đang gặm nhấm trái tim.