Ông chỉ vào tập hồ sơ dày:
“Căn bệnh của đứa trẻ này… bắt đầu từ ngày bà nội em qua đời.”

Ký ức của tôi bỗng bị kéo tuột về mùa hè xa xôi ấy.

Cây hoè già giữa làng, ve kêu đến ong ong đầu óc.

Bà tôi ra giếng sau vườn múc nước, chân trượt một cái.

Tôi nghe thấy tiếng “ùm” rồi tiếng kêu ngắn ngủi cuối cùng của bà.

Năm đó tôi mới mười hai tuổi, gầy nhẳng như cây đậu.

Tôi bò lên miệng giếng, gào khản cả giọng gọi bà, đáp lại tôi chỉ là tiếng vọng lạnh lẽo từ đáy giếng sâu.

Tôi chạy khắp làng cầu cứu, nhưng trai tráng đều đi làm ăn xa, quanh đó chỉ còn mấy ông bà già bằng tuổi bà tôi.

Họ đứng vây quanh giếng, thở dài, lắc đầu, bất lực.

Gọi điện cho bố mẹ thì không sao liên lạc được.

Mãi sau tôi mới biết công trường nơi họ làm việc không có sóng, mấy ngày liền tách biệt với bên ngoài.

Không ai biết phải làm sao.

Cũng chẳng ai muốn dính vào chuyện rắc rối này.

Ông trưởng thôn nói, đợi bố mẹ về rồi tính.

Thế là miệng giếng bị đậy bằng một phiến đá nặng.

Tôi cứ ngồi bên giếng, không ăn không uống.

Ban ngày, nắng hầm phiến đá nóng rực.

Đêm xuống, trăng chiếu lên, phiến đá lại lạnh ngắt.

Tôi như còn nghe thấy tiếng bà gọi tên mình từ dưới đáy giếng.

Ba ngày sau, bố mẹ cuối cùng cũng về.

Họ lao tới như người điên, bốc phiến đá lên, nhờ người kéo bà lên.

Cơ thể bà đã bị ngâm đến biến dạng.

Mẹ ôm xác bà khóc ngất, bố đấm thình thịch xuống đất, mu bàn tay rớm máu.

Còn tôi, không rơi nổi một giọt nước mắt.

Tôi chỉ đứng nhìn, như đang xem một bộ phim chẳng liên quan đến mình.

Từ ngày đó, tôi đã thay đổi.

Tôi mất ngủ triền miên, cứ nghĩ như cái giếng ấy nằm ngay bên giường.

Tôi bắt đầu nhìn thấy bà — người ướt sũng đứng trước mặt, hỏi sao tôi không cứu bà.

Tôi trở nên cáu gắt, chỉ chút chuyện nhỏ cũng nổi nóng đánh nhau, từng đánh vỡ đầu một cậu con trai trong làng.

Người ta đều nói, con bé nhà họ Lâm điên rồi.

Rồi tôi say mê những “gia tộc” với kẻ mắt đậm, tóc nhuộm đủ màu.

Tôi đặt cho mình cái tên “Lệ Thương”, gia nhập Táng Ái Gia Tộc.

Bố mẹ đưa tôi đi khám, tờ chẩn đoán với những thuật ngữ xa lạ trở thành bí mật lớn nhất của nhà tôi.

“PTSD nặng”, “ảo thị ảo thính”, “tách biệt cảm xúc”.

Hóa ra, cái gọi là nổi loạn, cái gọi là không hòa nhập… tất cả chỉ là bệnh.

Bố mẹ bỏ công việc ở ngoài, đưa tôi về quê, kiên nhẫn ở bên tôi suốt ba năm.

Họ dốc hết tiền tích cóp, dẫn tôi đi khắp tỉnh, gặp từng bác sĩ tâm lý.

Tình trạng dần khá hơn. Tôi không còn thấy bà nữa, ban đêm cũng có thể ngủ.

Tôi tưởng mình đã khỏi.

Bố mẹ cũng tưởng tôi đã khỏi.

Nên họ mới dồn hết sức mua căn hộ ở thành phố, mong tôi đổi môi trường, nhận được nền giáo dục tốt nhất, sống một cuộc sống “bình thường”.

Trong phòng thẩm vấn, luật sư vẫn đang trình bày:

“…Khi Lục Trì đe dọa sẽ phá việc làm của bố cô ấy, khiến cả gia đình phải lang thang ngoài đường, đó chính là giọt nước tràn ly. Cái đe dọa ấy trực tiếp khơi dậy ký ức chấn thương sâu trong cô — nỗi sợ tận cùng bị bỏ rơi, không nhà cửa. Khoảnh khắc đó, hàng rào phòng vệ tinh thần của cô hoàn toàn sụp đổ.”

Lúc này, tôi mới hiểu.

Tại sao bố thà cầm dao liều mạng cũng không gọi cảnh sát.

Tại sao mẹ thà vừa khóc vừa năn nỉ tôi cũng muốn tôi nhẫn nhịn.

Họ không phải yếu đuối.

Họ đang dùng cách vụng về của mình, liều mạng bảo vệ đứa con mong manh này.

Vì tình trạng đặc biệt của tôi, cảnh sát tiến hành vụ án này cực kỳ thận trọng.

Họ đi khắp tòa nhà phỏng vấn từng hộ.

Những hàng xóm trước kia hờ hững với chúng tôi, lần này lại phối hợp lạ thường.

Họ xác nhận Lục Trì đã quấy nhiễu bằng tiếng ồn suốt thời gian dài.

Quản lý tòa nhà cũng xuất trình được toàn bộ hồ sơ khiếu nại của gia đình tôi và các “biên bản” trao đổi vô nghĩa với Lục Trì.

Các bác hàng xóm từng lao xuống giúp tôi đêm hôm đó, cũng kể rành rọt chuyện Lục Trì sai người chặn đường tôi.

“Mấy thằng lưu manh đó nhìn là biết chẳng ra gì, không phải bọn tôi chạy xuống kịp thì cô bé này không biết sẽ ra sao!”